Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu. Tổ Ngữ Văn. THPT Bùi Thị Xuân. Đồng Nai
BÀI LÀM
“Vũ Như Tô”
là vở kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng
và của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm
1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào
thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích được học, gây ấn tượng
sâu sắc nhất trong lòng người đọc là nhân vật Vũ Như Tô cùng bi kịch
của người nghệ sĩ thiên tài.
Hành động, sự kiện chính của hồi này có thể tóm tắt như sau:
Lợi
dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ xây đài với Vũ
Như Tô và bạo chúa Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối
nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm
phản.
Biết tin có binh
biến, bạo loạn trong phủ chúa, nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan
Thiềm hết lời khuyên và giục chàng đi trốn. Nhưng Vũ khăng khăng không
nghe vì tự tin mình “quang minh chính đại”, “không làm gì nên tội” và hi
vọng ở chủ tướng An Hòa Hầu.
Tình
hình càng lúc càng nguy kịch. Lê Tương Dực bị giết; đại thần, hoàng
hậu, cung nữ của y cũng vạ lây; Đan Thiềm bị bắt, .… Kinh thành điên
đảo.
Khi quân khởi loạn
đốt Cửu trùng đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Chàng trơ trọi,
đau đớn vĩnh việt cửu trùng đài rồi bình thản ra pháp trường.
Theo từ điển văn học, bi kịch là mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão, lí tưởng của cá nhân với thực tại.
Thực tại chưa đủ điều kiện cho cá nhân thực hiện khát vọng, lý tưởng
của mình nên rơi vào thất bại, thậm chí dẫn đến cái chết thảm thương.
Hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ vò xé dai dẳng không có cách
nào giải thoát. Trong Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô là người nghệ
sĩ thiên tài có lý tưởng cao đẹp nhưng lâm vào cảnh ngộ không giải
quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm
gì nghĩa là không giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật
và đời sống cuối cùng rơi vào bi kịch đau đớn.
Vũ Như Tô là một nhân vật có thật đã từng được Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép rất tỉ mỉ: "Trước
đây, Vũ Như Tô một người thợ ở Cẩm Giàng, xếp những thanh nứa làm thành
kiểu mẫu cung điện lớn trăm nóc, dâng lên nhà vua; nhà vua bằng lòng
phong cho Như Tô làm đô đốc đứng trông nom việc dựng hơn trăm nóc cung
điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu trùng đài. "(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Chính Biên, quyển 26). Tuy nhiên Cửu Trùng Đài đã làm "Dân
chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong
được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải
làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi
các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm
xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác,
liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần
mười."(Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Quyển XV, Kỷ Nhà
Lê, Tương Dực Đế). Sau đó, Trịnh Duy Sản phản nghịch, dẫy binh, Vũ Như
Tô bị thợ thuyền giết chết, xác quăng ngoài chợ, bị mọi người khinh khi
nhổ nước bọt. Tuy nhiên, bi kịch đó của họ Vũ là sự oan khuất bởi ông
chỉ là người thừa lệnh của vua làm Cửu Trùng Đài vì thế nhân dân lầm
tưởng ông chỉ biết phụng sự cho hôn quân bạo chúa. Năm 1941, Nguyễn Huy
Tưởng đã minh oan cho họ Vũ bằng vở kịch năm hồi này.
Trong vở kịch Vũ Như Tô hiện lên là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân của niềm khao khát say mê sáng tạo cái đẹp, “là
người ngàn năm dễ có một....có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm
quân, có thể xây lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một
viên gạch nhỏ…chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hóa như cảnh hóa công”.
Qua vài lời của tác giả ta thấy Vũ Như Tô là một nghệ sĩ lớn mang trong
mình nhân cách cao đẹp, một nghệ sĩ có hoài bão lớn lao, có lý tưởng
nghệ thuật cao cả. Khát vọng nghệ thuật của ông lớn lao hơn bao giờ hết,
ông muốn xây dựng một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao” để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện” . Đó là một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non sông đất nước: “để
ta xây một Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu
Trùng Đài hoàn thành, cao cả huy hoàng, giữa cõi trần lao lực có một
cảnh Bồng Lai.... Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài”. Tâm Hồn của Vũ dành hết cho Cửu trùng đài.
Cửu
Trùng Đài – như cái tên của nó – là một công trình kiến trúc mà tầm vóc
không thể chỉ tính đếm bằng lượng gỗ cây, đá khối, cho dù đó là những
con số nghe qua cũng đã đủ kinh hoàng (“hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô ngần”,“hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”).
Tầm vóc của nó, phải hình dung bằng chính tầm vóc ý tưởng, khát vọng
đầy ngạo nghễ của người sẽ tạo ra nó: một công trình độc nhất vô nhị,
vượt xa tất cả những kỳ quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành,… và những
công trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng. Lại là một kỳ
quan bền vững, bất diệt. Xây công trình, họ Vũ không thèm “tranh tinh xảo” với người, chỉ “tranh tinh xảo với Hóa công”! Đó là hiện thân của cái Đẹp, không phải cái Đẹp nói chung mà là cái Đẹp “siêu đẳng”.
Tuy
nhiên, Đài Cửu Trùng lại là hiện thân cho cái Đẹp xa hoa. Xây nên kỳ
quan ấy, tất nhiên cực kỳ tốn kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng
tiền của ngân khố quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và
máu nữa. Mà Đài chỉ xây cho kẻ ăn chơi sa đọa là vua dâm Lê Tương Dực.
Còn nhớ đời Tây Chu bên Trung Hoa, U vương vì Bao Tự mà bắt dân xây Giao
Đài để ăn chơi hưởng lạc, khiến cho lòng dân trong nước oán hận rồi
cuối cùng đời Tây Chu cũng diệt vong. Cái mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô
ở đây là ước mơ khát vọng to lớn như vậy nhưng bản thân thì không thực
hiện được vì không có tài chính. Còn phụng sự cho hôn quân bạo chúa Lê
Tương Dực thì ông không bao giờ hợp tác. Nhưng rồi, Đan Thiềm xuất hiện:
sắc đẹp, lời ngon tiếng ngọt và sự tôn kính của Đan Thiềm đã làm cho Vũ
xiêu lòng và bằng lòng xây Cửu Đài. Cái oái oăm là ở đó, và mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô cũng là ở đó.
Theo
đó, ý nghĩa biểu tượng thâm trầm của Cửu Trùng Đài được xác lập trên
nhiều mối quan hệ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho “mộng lớn”.
Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh nước nhà. Với
Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng, Cửu
Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,… từ đó bi kịch đã đến với Vũ Như
Tô.
Vì quá đam mê thi thố tài
năng Vũ Như Tô nào có hiểu được sâu xa, trên thực tế, Cửu Trùng Đài đã
xây dựng bằng mồ hôi xương máu của nhân dân và nếu được hoàn thành thì
nó cũng chỉ là nơi ăn chơi xa xỉ, sa đoạ của vua chúa, giống như công
trình kiến trúc “Vạn Niên” của triều đình Nguyễn sau này : “Vạn niên là vạn niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Như vậy, Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình. Chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ thuần tuý nên đã vô hình chung, trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân, gây đau khổ cho nhân dân.
Để xây dựng Cửu đài, triều đình đã ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ
giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho
dân cùng nước kiệt; thợ oán Vũ vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông
cho chém những kẻ bỏ trốn. Vì thế cho nên nhân dân căm giận bạo chúa,
đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa, thậm chí là oán hận kiến trúc sư
đầy tài năng Vũ Như Tô và cuối cùng đã giết chết cả tên hôn quan bạo
chúa Lê Tương Dực lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy cả Cửu Trùng Đài.
Mâu
thuẫn đỉnh điểm được giải quyết bằng vũ lực. Trịnh Duy Sản cầm đầu bọn
phản nghịch đã náo loạn kinh thành. Chúng tìm Lê Tương Dực và giết chết
tên hôn quân ấy. Chúng đốt phá Cửu trùng đài, chúng tìm Vũ Như Tô để rửa
hận. Nhưng Vũ đúng là một nhân vật bi kịch. Ông không thể nào trả lời
câu hỏi “xây dựng Cửu Trùng Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội?. Thật
đau đớn thay, bi kịch thay cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm
mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không
chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn
day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”. Thậm chí Vũ Như Tô còn khẳng định
“ Bà không nên lo cho tôi. Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao
giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng để cho mọi người biết rằng
công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài,
chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước.
Hồn tôi để cả đây!”. Khi được Đan Thiềm giục giã chạy trốn bởi nguy hiểm cận kề, Vũ Như Tô còn “Ngây thơ” : “Họ tìm tôi nhưng có lý gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai”. Câu nói thể hiện sự bảo thủ và có phần mê muội. Ngay cả khi bị bắt Vũ vẫn không tin là sự thật, vẫn vĩnh biệt Đan Thiềm “đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ”. Khi bị quân sĩ vả vào miệng Vũ vẫn không ngừng nói về Cửu đài: “…vài năm nữa, Đài cửu trùng sẽ hoàn thành, cao cả, huy hoàng giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai”.
Đến chết vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một
phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một cách phũ phàng tàn nhẫn,
không như ảo tưởng của Vũ Như Tô. An Hoà Hầu đã cho quân đốt phá kinh
thành, đốt phá cả Cửu trùng đài. Cửu Trùng đài tan thành tro bụi.
Tất
cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiềm và Vũ bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ
thì Vũ mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán
tuỵệt vọng “Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta cái tài để
làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết!
Dẫn ta đến pháp trường”. Trong tiếng kêu than ấy, tiếng “Đan Thiềm, mộng lớn Cửu Trùng Đài”
dồn dập vang lên hoà nhập vào nhau thành khúc ca bi tráng, ai oán, đầy
tiếc thương. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”.
Vậy là cuối cùng Vũ Như Tô cũng đã phải trả giá cho chính hành động của
mình. Cái chết của người nghệ sĩ vừa đáng thương lại vừa đáng giận.
Là
một nghệ sĩ đầy tài năng và giàu sáng tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định
tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước, muốn làm đẹp cho đời,
nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của ông đã đặt lầm nơi lạc
chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng
chính sinh mệnh của bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi tâm
não của mình. Người đọc, người xem thương
người nghệ sĩ có tài có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn
sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp nhưng xa rời thực tế, mà phải trả giá
đắt bằng cả sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật đầy tâm huyết sáng tạo
cuả mình
Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc rằng: “Không
có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể
chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ
nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ là văn chương mà thực
chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn
chương”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những
công trình vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan
hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi của
muôn dân”. Một vấn đề đặt ra nữa là “Xã hội phải biết tạo điều
kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu
những giá trị nghệ thuật đích thực”.
Qua tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng
gợi những suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt
động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời sống nhân dân. Vì vậy vấn đề tác
giả đặt ra ngày ấy, giờ đây bước sang thiên niên kỉ mới, nó vẫn còn
nguyên giá trị.
PHAN DANH HIẾU