Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Trong
những ngày tháng cả nước rộn rang lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn
Tây Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn,
nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong
những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền
văn học Việt Nam, người đã mang lại những tờ hoa thơm thảo cho đời.
Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái đò song Đà – một tác
phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Đến
với nghệ thuật, đối với Nguyễn, là đến với sự tìm tòi và sáng tạo. Bởi
vì “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của
ngày hôm nay giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm
thường. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác
phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những
điều mới lạ. Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn đã bôn ba
trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê
hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại.
Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng với tinh thần của
người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười
của màu sắc song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn
trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với
công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với
tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân
đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú của mình để viết
nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi
này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy,
những trang văn của ông thường mang theo âm điệu của những trận cuồng
phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ
mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng
vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, có thể
cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước
sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng
“nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất
đi được nét trữ tình ở sông Đà. Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi
dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển, mang đậm
chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò
xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu “một mất, một
còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt
vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ
thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà
không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân
thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng
một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là
“cố nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động
một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh
vào giác quan người đọc. Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách
sinh động, rõ nét và sắc sảo….
… Đối với Nguyễn Tuân, “đã là văn
thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã
chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự
vật, qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ
thuật và tài hoa nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày
công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng
dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là nguồn cảm
hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
người bầm đi vì rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn
thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ
da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Gặp lại sông
Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân.
“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất
trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái
điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông bao giờ cũng
đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải qui hàng. “Nắm chặt lấy
được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy
luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo
về phía cửa đá ấy”. Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển
chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn viôlông. “Người lái đò sông
Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Trước cách
mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với
quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn là những
Huấn Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”.
Nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc
đến điều”. Nhưng sau cách mạng, Nguyễn đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ
ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi. Huấn Cao giờ đây
đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với công
việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến
đấu với tử thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng
người đọc. Nguyễn Tuân đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao
động trên ngực như một niềm hãnh diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện
trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa trí dũng song toàn.
Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm
lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây
dựng Tổ quốc.
Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc
và người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều
ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Mọi vật, mọi sự
như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ vào
đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim
táo tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao
xuống “đáy hút sông Đà” để quay phim… Tất cả những gì nhà văn viết ra,
những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều như được dựng lại trước
người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân,
ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái
với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá
ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.
Trong đoạn
văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc chiến
đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì:
“Mặt nước hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông
thuyền”. Nó “bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa
mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình ảnh mang đậm nét “quân sự, võ
thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc hỗn chiến nguy
hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.
Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà
văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch
sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào dào dạt trong tác
phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền quê
hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới
thiệu bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác
giả nhắc đến trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La,Hát Loóng… Tất cả,
tất cả chứng tỏ sự hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết
về sông Đà…
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân
thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt
lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc
đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc
và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài
hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc
những dòng viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc
nhiên trước giọng văn êm ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.
Viết
về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn
Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao
động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái
càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng
nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân
thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại
là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong
con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió
lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm
là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.
Cuộc sống
quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và
gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới
mới, tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp
phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho
chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là
chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…