ĐỀ RA: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu)
Những đường Việt Bắc của ta
………
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng
Bài viết của Thầy Phan Danh Hiếu. Biên Hòa. Đồng Nai
Download file Word: http://www.ziddu.com/download/17803946/VietBacdoancuoi.doc.html
BÀI LÀM
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách
mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn
riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, Việt Bắc là
đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài
thơ được làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ
chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ
không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài
thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về
nội dung và giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất trong bài thơ Việt Bắc:
Những đường Việt Bắc của ta
………
Vui lên VB đèo De núi Hồng
Nếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đến cho người đọc vẻ đẹp
của tình nghĩa quân dân qua những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó. Thì ở đoạn
thơ này, nhà thơ đã đột ngột chuyển dòng. Không còn những dòng thơ ngọt
ngào như ca dao nữa mà đoạn thơ này đã mang âm hưởng của cảm hứng sử thi
hùng tráng. Đó là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của
dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô
tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ
hình ảnh những đoàn dân công, là hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên
đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến. Đó là khí thế của "40 thế kỷ cùng ra trận" ngời sáng trong trận chiến sinh tử với kẻ thù.
Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến với “những đường VB của ta... đất rung”. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”.
Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ - “đêm đêm”),
những phụ âm rung (r - “rầm rập”). Ấn tượng ở những câu thơ này còn
được nổi bật lên bởi ý nghĩa khái quát, ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh
con đường. Khi tác giả nói “những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng viết “đường ta rộng thênh thang tám thước”.
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên, đường qua Tây Bắc, đường lên Điện
Biên… những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng
cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi
lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường đang dẫn tới thành công.
Hình
ảnh một đất nước trong kháng chiến, của Việt Bắc trong tháng năm hào
hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh những đoàn quân ra
trận:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”
Còn
nhớ ngày 22.12.1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã
làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Tiền
thân của QĐND Việt Nam). Khi ấy, đội quân mới chỉ có 34 người. Vậy mà
mấy năm sau từ 34 người với trang bị vũ khí thô sơ, quân đội ta dã phát
triển thành tinh nhuệ với “điệp điệp trùng trùng”. Điệp ngữ “điệp điệp trùng trùng” gợi
lên sự đông đảo, lớn mạnh, đoàn quân như trải dài vô tận, vươn ra khắp
núi rừng Việt Bắc. Sự tinh nhuệ ấy là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự
trưởng thành của quân dân ta, đồng thời cũng cho thấy, quân đội ta đã
thực sự lớn mạnh cả về chất và lượng, có thể đương đầu với mọi kẻ thù to
lớn.
Hình
ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc vũ trụ
bởi hình ảnh ánh sao đầu súng, một hình ảnh rất thực nhưng đã vụt lớn
lên bởi cảm hứng lãng mạn. Ba hình ảnh: súng – sao – mũ như đi cùng
nhau. Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ
là cách nói hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm
vóc vươn tới sao trời của người lính. Ánh sao là hình ảnh chỉ ngôi sao
trên mũ người chiến sĩ. Sao cũng là biểu tượng của tổ quốc. Người lính
ra chiến trận mang theo cả tổ quốc bên mình:
Anh vào bộ đội sao trên mũ
Vẫn mãi là sao sáng dẫn đường
Em mãi là hoa thơm trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Vũ Cao)
Nhà
thơ đã dùng thước đo vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách mạng.
Những người chiến sĩ đang hành quân ra trận. Đó là âm hưởng của những
chữ “đi”, “điệp điệp”, “trùng trùng”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên
trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một dải
ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.
Trong
bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu
còn dùng một màu sáng, một màu sáng chói loà để làm bừng lên vẻ đẹp
hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân, dù chỉ qua một chi tiết về đoàn
dân công. Đó là hình ảnh:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”
Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của câu thơ. Tác giả không viết “từng đoàn dân công đỏ đuốc”, mà mở đầu câu thơ là hai chữ “dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
Hình tượng bàn chân là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người
gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng. Ở đây hình ảnh bàn
chân đã được thủ pháp phóng đại, cường điệu làm bừng sáng lên ánh sáng
lãng mạn nhưng đầy khí thế oai hùng lẫm liệt tựa như “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (thế mạnh ba quân như hổ báo nuốt trôi trâu). Sức mạnh bàn chân ấy cũng đã từng được Tố hữu nhắc đén trong bài Ta đi tới:
Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!.
Với hai dòng thơ tiếp theo, bức tranh kháng chiến hiện lên với những hình ảnh mới. Đó là hình ảnh “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, hình ảnh của những đoàn xe cơ giới ra trận. Sự hùng vĩ của nó được đo bằng thước đo của nghìn đêm lịch sử, “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” đã bị xua đi bởi “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Sự tương phản giữa quá khứ “thăm thẳm sương dày” với ánh sáng của “ngày mai lên” là sự tương phản làm nổi bật giá trị của nghìn đêm kháng chiến. Chữ “bật sáng” nhằm nhấn mạnh cái khoảnh khắc chói loà, kháng chiến chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chiến thắng.
Bốn câu thơ cuối khép lại bằng niềm vui chiến thắng :
Tin vui chiến thắng trăm miền
…
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Tố
Hữu sử dụng bốn câu thơ để miêu tả không khí chiến thắng đang dồn dập
trên khắp đất nước. Cũng là một thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở
đây không gắn với chữ “nhớ” như ở những dòng thơ mở đầu của đoạn mà gắn với những chữ “vui” để
thấy tin vui đang như bay lên từ khắp trăm miền. Kết cấu của bốn câu
thơ này cũng là một kết cấu khá chặt chẽ. Câu một là cảm xúc bao quát: “Tin vui chiến thắng trăm miền”, còn
ở câu sau nhằm thể hiện sự lan toả của những tin vui khắp trăm miền ấy.
Vì thế những địa danh liên tiếp xuất hiện gắn liền với các tin vui
chiến thắng. Sự liệt kê các địa danh chiến thắng cũng chứa đựng những
giá trị tư tưởng-nghệ thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm làm nổi bật tin vui
như bay đi trong một tốc độ “siêu tốc”. Vừa mới đó là Hòa Bình -
Tây Bắc – Điện Biên, tiếp sau đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây
Nguyên), lại đã là Việt Bắc, đèo De núi Hồng.
Tóm lại, đoạn thơ đã rất thành công khi thể hiện niềm vui chiến thắng
của quân và dân ta trong những ngày kháng chiến chống thực dân pháp gian
khổ nhưng rất đỗi hào hùng. Thành công ấy là nhờ vào một số thủ pháp
nghệ thuật thể hiện: thể thơ lục bát truyền thống; ngôn ngữ sử thi hào
hùng; hình ảnh thơ giàu sức sống; nhịp thơ dồn dập, nhiều điệp từ, điệp
ngữ… tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hùng tráng về những ngày sục sôi
đánh pháp. Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi mà sức sống mãnh liệt của thời
đại ấy vẫn còn rực lửa trong trái tim mỗi con người Việt Nam.