Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2012

Chữ người tử tù - NT..tong? hop

Chữ người tử tù

                                         
                                                                                                GV:Đỗ Đức Anh
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi bật của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông là người suốt đời đi tìm cái đẹp đích thực. Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là “Vang bóng một thời”. Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu vẻ đẹp ấy qua một tác phẩm đặc sắc của tập Vang bóng một thời: truyện ngắn Chữ người tử tù
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả Nguyễn Tuân – Lãng tử phương Đông - nhà thơ bị đóng đinh trên cây thập giá của văn xuôi
a. Cuộc đời
- Nguyễn Tuân (1910-1987), sinh tại Hà Nội, theo chủ nghĩa xê dịch, nhà báo-nhà văn thành công từ trước CMT8. Ông tham gia CM và giữ chức vụ quan trọng.
- Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho vào thời buổi Hán học đã lụi tàn, chịu ảnh hưởng từ người cha là một nhà nho tài hoa bất đắc chí -ông tú Nguyễn An Lan.
- Nguyễn Tuân sinh ngày 10/7/1910, mất đột ngột vào ngày 28/7/1987. Tháng 7 sinh ra một đấng tài hoa, một nhà văn lỗi lạc, nhưng tháng 7 cũng tàn nhẫn đưa đấng tài hoa ấy thành người thiên cổ, để rồi đến hôm nay nền văn học VN chưa thấy xuất hiện lại một thiên tài nào như vậy nữa.
- Năm 1996, được trao giải thưởng HCM – danh  hiệu cao quý giành hco những nghệ sĩ chân chính có tài có tâm. Chúng ta coi đó là sự ghi danh, sự tri ân của cuộc đời đối với một cuộc đời cao quý.
- Là người tôn thờ cái đẹp, coi cái đẹp như một tôn giáo.
- Là bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam.
- Là một trong những cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỉ 20.
- là người biết “đẻ ra” những nhân vật có khả năng vượt qua cái mỏng manh của trang giấy để trà trộn vào đám người đang sống.
- Là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thập giá của văn xuôi.
- Là người đã yêu thì yêu mê đắm, đã ghét thì tới mức căm thù, đã uống rượu thì phải uống cả cấn “dĩ tận vi độ”, đã đi thì phải đi tới đầu sông ngọn nguồn, tới những nơi tột cùng của tổ quốc, đã tìm hiểu bàn bạc thì phải tìm cho đến ngọn ngành gốc rễ. Ông là ca sĩ của những vẻ đẹp tinh khôi tuyệt đỉnh của tạo hóa, của sắc ngọc trai đáy biển, của bầu trời trên đỉnh núi Mèo, của bông tuyết đầu mùa, của hoa lan “vương giả”, của bông thủy tiên nở đúng đêm giao thừa…
“Nói đến Nguyễn Tuân là nói một giá trị hồn nhiên, là khơi sáng lại dòng sông thời gian chìm khuất, là nhắc nhở đến một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ. Nguyễn Tuân đứng sững trước mặt chúng ta với vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật. Hành trình vào tác phẩm Nguyễn Tuân như hành trình đi vào một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo. Từng nguồn ánh sáng lung linh chiếu rọi vào mỗi dòng, mỗi chữ, thứ ánh sáng lạ kỳ làm mê hoặc cả gỗ đá vô tri làm nhũn từng ý nghĩ bứt đi tự niềm cô đơn nhất. Nghệ thuật khi đã vươn tới đỉnh cao có thể toả ra xung quanh những tia lửa làm cháy cả rừng cây, làm khô dòng suối, nếu rừng cây dòng suối chỉ mang trong bản chất những ước lệ tầm thường, nhàm chán” (Tạ Ty)
b. Sự nghiệp
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, sở trường thể loại tùy bút.
- Là cây bút văn xuôi lãng mạn thời kì cuối cùng.
- Trước CMT8: có ba đề tài chính
+ Chủ nghĩa xê dịch: ca ngợi cuộc sống giang hồ
+ Vẻ đẹp vang bóng: đi sâu vào những phong tục cổ truyền của dân tộc
+ Đời sống trụy lạc
- Sau CMT8:
+ Nhân dân lao động
+ Người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang
+ Cảnh đẹp quê hương đất nước
- Tác phẩm chính: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua (trước 1945), Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (sau 1945)…
c. Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo.
Thứ nhất, văn Nguyễn Tuân thể hiện một sự tài hoa, uyên bác trong sự vận dụng những am hiểu từ các lĩnh vực khác nhau. Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện nghệ thuật và nhìn con người ở phương diện nghệ sĩ. Nhân vật dù là loại người nào cũng đều có vẻ đẹp - phẩm cách của người nghệ sĩ; chứa đựng cái “ngông” của tác giả từ những bậc tao nhân mặc khách, những trang anh hùng nghĩa liệt trong Vang bóng một thời đến những người lao động như người lái đò...
Thứ hai, văn phong Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Trước CMT8, văn phong Nguyễn Tuân có sự đối lập giữa xưa nay rõ nét nhưng sau CMT8, ông không còn đối lập xưa nay mà đã có tìm thấy sự gắn bó, hòa hợp giữa hai yếu tố này.
Thứ ba, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân sáng tạo, độc đáo, câu văn đầy giá trị tạo hình, đã góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc. Thứ tư, phong cách tự do, phóng túng, ý thức sâu sắc về cá tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể loại tùy bút như một điều tất yêu và đạt được nhiều thành tựu trong thể loại này, thúc đầy thể tùy bút của nền văn học nước nhà đạt đến trình độ nghệ thuật cao.
d. Những đóng góp cho nền văn học dân tộc
- Nâng thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao.
- làm phong phú thêm ngôn ngữ vă học dân tộc.
- Đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa độc đáo.
2. Tập truyện ngắn “Vang bòng một thời” (1940)
- Số lượng: 11 truyện ngắn
- Nội dung: Viết về một thời đã xa, nay chỉ còn vang bóng – thời nhà Nguyễn suy tàn, thực dân Pháp đô hộ, những nho sĩ cuối mùa trở thành lớp người lạc lõng. Trong hoàn cảnh Tây Tàu lẫn lộn nhố nhăng, những con người tài hoa bất đắc chí ấy muốn giữ lại vẻ đẹp truyền thống xưa qua những thú vui tao nhã: thưởng hoa, uống rượu, ngắm trăng, nhấm nháp chén trà buổi sớm với tất cả những nghi lễ thiêng liêng. Họ, cũng cố giữ thiên lương cho trong sạch.
=> Tập truyện là sự hoài niệm về những nét đẹp văn hoá cổ truyền đã mất đi.
=> Trên trang viết Nguyễn Tuân, những "vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Cho nên tập truyện cũng là một ước mơ trong sạch, một “tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”.
3. Truyện ngắn “Chữ người tử tù”
a. Xuất xứ:
- Truyện lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” (in năm 1939 trên tạp chí Tao Đàn).
- Về sau, khi được tuyển in trong tập “Vang bóng một thời”, tác giả đổi thành “Chữ Người tử tù”.
b. Chủ đề: Truyện chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. “Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng về sự bất diệt của thiên lương, của cái đẹp đích thực, của tài năng nhân cách cao cả của con người
c. Thú chơi chữ của người xưa
- Chữ Hán, viết bằng bút lông, có tính chất tạo hình và mang đậm dấu ấn người viết.
- Là một hành vi sáng tạo nghệ thuật.
- Đối tượng: tao nhân mặc khách.
Chữ Hán là thứ chữ khối vuông, viết bằng bút lông nên có nét đậm, nét nhạt, nét mềm mại, nét mạnh dạn... Các nét này hòa hợp với nhau bay lượn tung hoành trên một bức giấy, bức lụa như một bức họa tài tình, sinh động, thể hiện chân thực tâm hồn, tính cách người viết. Xưa nay, nhưng tao nhân mặc khách thường treo các bức chữ ấy ở nơi trang trọng nhất trong nhà như những họa phẩm quý giá để chiêm ngưỡng, thưởng thức.
d. Về Cao Bá Quát – người được coi là nguyên mẫu để nhà văn xây dựng nhân vật Huấn Cao
- Là nhà thơ tài hoa, phóng khoáng thế kỉ XIX (Văn như Siêu, Quát)
- Đã từng lám Hành tẩu ở bộ Lễ rồi bị giáng chức.
- Từng làm Giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây).
- Tham gia khởi nghĩa nông dân Sơn Tây chống lại triều đình nhà Nguyễn (1854), rồi sau đó bị giết, bị triều đình Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc.
=> Một nhà nho yêu nước, con người vì nghĩa lớn dám đứng về phía nhân dân.
- Là người có nhân cách cứng cỏi, cả cuộc đời chỉ cúi đầu vái lạy hoa mai (Nhất sinh đê thủ bái hoa mai).
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Tình huống truyện: Cuộc tương ngộ của những tấm lòng trong thiên hạ
Tình huống truyện là "cái tình thế xảy ra truyện", là "một khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc", là cái "khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người" (Nguyễn Minh Châu).
Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó, nhân vật bộc lộ tâm trạng, tính cách, hay thân phận của nó góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm.
a. Chữ người tử tù được dựng trên một tình huống giàu kịch tính
Tình huống độc đáo: Cuộc gặp chạm trán éo le của nhân vật Huấn Cao và quản ngục
- Trên bình diện xã hội: họ hoàn toàn đối lập nhau.
+ Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường để thụ hình.
+ Còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời.
- Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ sĩ.
- Trên bình diện nghệ thuật: họ là tri âm, tri kỉ với nhau.
+ một người có thư pháp tuyệt vời
+ Người kia lại suốt đời ngưỡng mộ cái tài hoa ấy
=> Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm nhơ bẩn, tạo nên một cuộc tương ngộ kì lạ và đáng nhớ.
b. Tình huống oái oăm dẫn đến xung đột trong việc lựa chọn của nhân vật Quản Ngục:
- Quản Ngục Hoặc làm tròn phận sự công việc thì phải chà đạp lên một tấc lòng tri kỉ => Lựa chọn theo cách thứ nhất này, chiến thắng sẽ thuộc về sự tầm thường
- Hoặc muốn trọn lòng tri kỉ thì phải vượt lên phép tắc triều đình => Lụa chọn theo cách này, chiến thắng sẽ thuộc về cái đẹp.
Quản ngục có thủy chung với tấc lòng tri kỉ hay không? Có dám coi thường bổng lộc và sự an toàn tính mạng của mình hay không? Có thể thoát khỏi cái nhà tù vô hình vẫn giam cầm nhân cách cả mình không? Có dám sống đẹp không? Với tính huống như thế có thể đặt thêm cho câu chuyện một phụ đề: Số phận của cái đẹp.
=> Tình huống truyện độc đáo thể hiện ở mối quan hệ éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri kỉ. Hai nhân vật được đặt trong một tình thế đối địch: tử tù và quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục qua lựa chọn của mình. Từ đó mà chủ đề của tác phẩm cũng được thể hiện sâu sắc.
Nói thêm: Trong tiểu thuyết hiện thực của Đốtxtôiépxki (Nhà văn Nga, Thần tượng của Nguyễn Tuân), đôi lúc cũng có những tình huống đối lập kì lạ giữa lí tưởng và hiện thực, giữa tính cách và hoàn cảnh. Một cô gái điếm, một kẻ sát nhân tụ tập trong một căn phòng hẹp, với ngọn nến bập bùng, trước pho sách vĩnh hằng của Kinh Thánh (Tội ác và trừng phạt).
2. Nhân vật Huấn Cao – sự kết hợp lí tưởng giữa nghệ sĩ và hào kiệt
- Trước cách mạng, NT – người nghệ sĩ có tâm hồn yêu cái đẹp, đã đem cái tôi tài hoa, khinh bạc, kênh kiệu của mình chống lại cái xã hội “ối a ba phèng”, cái xã hội ô trọc của những kẻ giàu lên một cách hỗn láo, cái xã hội ăn hiếp người của bọn con buôn, chỉ điểm, mật thám. Lạc lõng giữa cái xã hội sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc ấy là một đám nghệ sĩ tài hoa, tài tử, những kẻ giang hồ phiêu lãng, chỉ đem cái tình cái tài ra mà đối đãi với nhau. Viên Quản ngục còn chút thiên lương và Huấn Cao thuộc loại người hiếm hoi này.
- Trong Chữ người tử tù, ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc hoạ vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao. Vẻ đẹp của Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hoá, được thể hiện một cách khác thường chừng như không thể xảy ra được. Huấn Cao hiện lên một cách rực rỡ, chói sáng nhờ được tô đậm bằng những tương phản gay gắt.
- Con người được lí tưởng hóa này cũng như những kẻ tài hoa, những giang hồ lãng tử khác trong “Vang bóng một thời” là hình bóng của Nguyễn Tuân, là ước mơ của Nguyễn Tuân, dù là có thể có nhiều ý kiến cho rằng nhân vật ấy bắt nguồn từ một nguyên mẫu ngoài cuôc đời là Cao Bá Quát.
a. Huấn Cao – nho sĩ tài hoa lỡ vận
Tài văn: Tài viết thư pháp -  tài năng của một người nghệ sĩ chân chính.
Tài võ: Có tài vượt ngục bẻ khóa, ra vào chốn lao tù như không
v  Tài năng được miêu tả gián tiếp:
- Tài hoa của HC được giới thiệu ngay từ đầu truyện qua lời của các nhân vật khác. Nguyễn Tuân đã chú ý giới thiệu cái tài hoa của HC trước khi giới thiệu nhân vật. Nhân vật chính chưa xuất hiện, đã được giới thiệu là người “văn võ đều tài cả”. Hơn thế,  tài viết chữ đẹp hiện lên từ những lời đồn đại ngưỡng mộ của người đời “Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp?”, tài hoa của HC đã tạo nên danh tiếng trong lòng thế gian, như một huyền thoại.
-  Tài năng ấy còn được nhấn mạnh hơn nữa khi Nguyễn Tuân miêu tả sự khao khát, nhẫn nại đãi ngộ kẻ tử tù cả tháng trời chấp sự khinh bạc xua đuổi của kẻ dưới quyền, và thậm chí bất chấp cả hiểm nguy bị cách chức để có được chữ của viên quản ngục, “Chữ Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm “, “Có được chữ ông Huấn mà treo là có được một vật báu trên đời “, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
v  Tài năng được miêu tả trực tiếp:
- Và đặc biệt, sự nâng niu, trân trọng của những người trong phòng giam trước những con chữ vuông vức thơm phức mùi mực đã thay cho những lời ca tụng về nét tài hoa của một Huấn Cao nhà nho nghệ sĩ chân chính. Trong cảnh tượng ấy, tài hoa của Huấn Cao đã được ngòi bút Nguyễn Tuân trực tiếp miêu tả “nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của cả đời con người” (quả đúng là: nét chữ nết người). Chữ Huấn Cao quý vì nó chứa đựng những hoài bão tung hoành, chứa đựng sự tinh hoa, tinh huyết của cả đời người. Nét chữ ấy không chỉ được khen ngợi, được ngưỡng mộ mà còn được tôn thờ, nó không chỉ đẹp mà còn quý, gần như là một điều gì đó rất thiêng liêng.
=> Miêu tả cái tài hoa tuyệt đích của HC cũng chính là cách để Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm liên tài của mình. Cái tài là thứ quý hiếm đáng được tôn thờ và ngưỡng mộ; phải là cái phát lộ đến tuyệt đích; phải có giá trị thanh lọc tâm hồn con người.
b. Huấn Cao – anh hùng thất thế, sa cơ đang phải chờ lĩnh án chém mà vẫn khí phách hiên ngang
- Nhân vật Huấn Cao còn được khắc họa đậm nét ở từ góc độ của một anh hùng nghĩa khí. Con người ấy đã đứng về phía nhân dân “ thủ xướng” cuộc dựng cờ mà chống lại triều đình. Chí lớn không thành, bị bắt giam nơi tử ngục chờ ngày lãnh án chém mà vẫn thản nhiên coi thường, vẫn là một anh hùng hiên ngang, ung dung (coi cái chết nhẹ tựa lông hồng). Cho nên cái câu “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” thực chẳng đúng với ông HC chút nào.
- Khí phách khác người của HC cũng được giới thiệu ngay từ đầu truyện, là người có nghĩa khí chọc trời khuấy nước, lại có tài bẻ khóa vượt ngục=> dũng khí phá bỏ gông xiềng của HC cũng lan truyền vang dội xa như huyền thoại khiến  những con người đang nắm giữ gông xiềng cũng phải nể sợ.
Thái độ:
- Trước hết ở thái độ đối với cường quyền: ông đã dám đứng lên để chống lại triều đình phong kiến bởi không chịu khuất phục trước cường quyền và bạo lực, như vậy tức là dám chống lại một nền móng xã hội có sức mạnh của cả ngàn năm, nó đi ngược lại với luân lí lễ giáo mà Nho giáo áp đặt cho những nho sĩ trí thức như Huấn Cao, và khi làm như vậy cũng là đặt bản thân, dòng tộc vào vòng hiểm nguy. Bấy nhiêu cũng đã đủ nói lên tính cách khí khái vị nghĩa của Huấn Cao.
- Đối với ngục quan, HC vẫn tỏ ra đường hoàng, ngang tàng, thậm chí là xua đuổi, mắng nhiếc.
+ Thản nhiên nhận rượu thịt mà chẳng hề sợ hãi hay lo nghĩ gì, coi đó như “việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”.
+ Khi viên quản ngục hỏi ông có cần thêm gì nữa không với thiện ý chân thành, HC đã trả lời như thể tát nước vào mặt y: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
+ Khi tưởng viên quản ngục cũng như bao kẻ nơi trại giam khác “sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, nghĩa là cũng độc ác, thô bỉ, ngu xuẩn, cặn bã, “ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều”.
=> Đến cả lúc lỡ bước sa cơ, ông vẫn giữ cho mình được cái tính đường hoàng, tự tại thậm chí có phần ngạo nghễ, kiêu bạc.
Hành động:
- Khí phách hiên ngang của HC thể hiện rõ ràng nhất chính ở hành động.
+ Đó là việc dỗ gông một cách lạnh lùng trước mặt tên lính áp giải, giữ nghiêm cái oai phong lẫm liệt của một người lãnh đạo, chứ không hề có sự sợ hãi, buông xuôi của một tử tù đang chờ án chém.
+ Khí phách đó còn thể hiện qua lời mắng nhiếc, xua đuổi đối với viên quan coi ngục, dẫu HC biết rằng ông ta chính là người nắm quyền sinh sát nơi đề lao này. Đó là hành động nhằm giữ gìn khí tiết, không vì biệt đãi mà chịu lụy vào người.
+ Đối với những người xin chữ, HC nhất quyết không vì mưu cầu lợi ham lộc mà bán cái tài của mình, “tính ông vốn khoảnh”.
 + Trong cảnh cho chữ con người ngang tàn ấy cổ đeo gông, chân vướng xiềng vẫn say xưa sáng tạo, không thèm nghĩ đến cái chết đang kề cổ.
=> Tư thế hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.
=> Là kẻ phản nghịch nguy hiểm, cứng đầu trong mắt của triều đình, nhưng trong mắt của người đọc, HC vẫn là con người nghĩa khí đáng trọng.
Nơi HC hội tụ cái khí phách hiên ngang, cái uy nghi của một bậc anh hùng lẫm liệt “bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”
c. Huấn Cao – Con người có thiên lương rực rỡ
Huấn Cao – người sáng tạo cái đẹp – hiểu được giá trị của cái đẹp
- Bản thân HC là người sáng tạo cái đẹp nên ông ý thức được  giá trị của cái đẹp
+ Là người viết chữ đẹp nhưng ông rất ít cho chữ (ngoài 3 người bạn thân)
+ Chỉ cho chữ những người biết thưởng thức và biết yêu quý cái đẹp, tôn trọng cái tài: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
+ Chỉ đến khi cảm được tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và hiểu ra cái sở nguyện cao quý của quản ngục, HC mới nhận lời cho chữ.
=> Đã là người không run sợ trước quyền thế, HC còn là người không bao giờ bị cám dỗ bởi vàng ngọc hay giàu sang phú quý. Là người trọng nghĩa, khinh lợi. Biết tự trọng và không ham quyền hám lợi.
=> Một tâm hồn thanh cao, trong sạch.
Huấn Cao - một con người biết trọng tấm lòng của con người
- HC là người nghĩa khí khảng khái, nhưng ông còn là một con người biết trọng tấm lòng của con người. Đã từng hiểu nhầm thành ý của viên quản ngục mà đuổi mắng ông ta ngay khi đang được biệt đãi, nhưng HC lại tỏ ra hết sức vị tha, rộng lượng khi thấu hiểu ước ao cao đẹp của viên quản ngục. Đó thực sự là biểu hiện của một con người có phẩm tiết cao quý, mà theo chữ Nguyễn Tuân dùng, đó là một tấm lòng thiên lương cao đẹp. Tấm lòng thiên lương của Huấn Cao thể hiện rõ nhất qua sự thay đổi thái độ của ông đối với viên quản ngục.
+ Lúc đầu, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc, lạnh lùng đối với viên quản ngục.
+ Nhưng khi đã hiểu rõ tấm tình của viên quản ngục, Huấn Cao chẳng những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt lên lời nói đầy xúc động, ân hận chân thành “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Hóa ra con người tưởng như có trái tim bằng thép ấy cũng có lúc mềm lòng. Theo Huấn Cao, sống là phải xứng đáng với mọi tấm lòng trong thiên hạ, phụ mất một tấm lòng đã là một tội lỗi lớn. Đó là một tấm lòng vị tha, vị nghĩa, một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, mến mộ tri âm. Chính tấm lòng ấy đã nối kết hai con người ở trong hai vị thế đối đầu nhau và cũng chính tấm lòng ấy đã khiến cho nhân vật Huấn Cao toàn vẹn hơn, hoàn hảo hơn. Ông không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa mà còn là hiện thân của phẩm tiết, của khí chất kẻ sĩ.
d. Huấn Cao – người thay Nguyễn Tuân phát biểu quan niệm sống
- Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ những quan niệm của mình về cái đẹp: Trong truyện, Huấn Cao được xây dựng không chỉ là người có tài mà còn có tâm, có "thiên lương" (bản tính tốt lành). Huấn Cao không chỉ có thái độ hiên ngang, bất khuất, coi thường cái chết và tiền bạc mà còn có tấm lòng yêu quý cái thiện, mềm lòng trước tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và sở thích cao quý của ông ta) và thậm chí còn biết sợ cái việc chút nữa "phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Có thể nói đó là hai mặt thống nhất của một nhân cách lớn => Như thế, trong quan điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm. Cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một quan điểm thẩm mĩ tiến bộ của tác giả.
- Qua việc yêu mến và ca ngợi HC, tiếc nuối những người như HC, nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến những giá trị văn hoá truyền thống, thể hiện tinh thần dân tộc và lòng yêu nước kín đáo của mình.
Tiểu kết: Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất, lí tưởng nhất của đời văn Nguyễn Tuân, là sự kết tinh của một ngòi bút tài hoa lãng mạn, là sự kết hợp lí tưởng tuyệt vời với một đấng anh hùng hào kiệt và một bậc tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật này là nét son đỏ chói lọi trên cái nền vàng úa, ảm đạm của “Vang bóng một thời”. HC là nhân vật có khả năng vượt qua cái mong manh của trang giấy để in sâu vào tâm trí người đọc.
2. Nhân vật viên quản ngục – Người tù chung thân của nhà tù giam cầm nhân cách - một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ
- Viên quản ngục thực chất không phải là hung thần với đôi tay vấy máu mà ông cũng là một nhà nho biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền.
- Vài nét chấm phá về ngoại hình: “Ngừơi ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu, những đừơng nhăn nheo của bộ mặt tư lự” ,viên quản ngục với vẻ ngoài dễ nhìn đã trải qua một đêm thao thức khi có lệnh sắp nhận sáu tên tử tù trong đó có HC - người đứng đầu bọn phản nghịch nhưng lại viết chữ rất đẹp.
- Điểu đáng chú ý là tâm hồn ông ít nhiều xao động khi nghe tin HC sẽ được giải đến trại giam tỉnh Sơn, chứng tỏ phần nào cái tính cách khá dịu dàng khác hẳn với bao kẻ tàn nhẫn trong chốn đề lao.
- Đấy cũng là con người luôn trăn trở, cựa quậy trong cái gông cùm vô hình và thắt ngặt của phận sự, của công việc hằng ngày. Chỉ bằng hình ảnh ẩn dụ của những con song, nhà văn đã thể hiện được sự cô đơn, tù túng như bị giam cầm trong cõi lòng. Cái nhà tù đó, đã trói chặt những ước mơ, những hoài bão một đời con người.
a. Con người yêu cái đẹp
PV: Khi biết HC sắp sửa vào nhà giam của mình, viên quản ngục đã có suy nghĩ (mong muốn) gì?
- Là một người làm nghề coi ngục, là công cụ trấn áp của bộ máy thống trị đương thời, nhưng viên quản ngục lại có thú chơi thanh cao, tao nhã -thú chơi chữ. Ngay từ khi còn trẻ, tức là khi mới "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền", ông đã có cái sở nguyện "một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết". Cái sở nguyện thanh cao muốn có được chữ của Huấn Cao để treo bất chấp nguy hiểm, cùng thái độ thành kính đón nhận chữ từ tay Huấn Cao cho thấy, viên quản ngục là một người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài", là người biết trân trọng những giá trị văn hoá.
- Khi tiếp nhận HC, một tên nổi loạn khét tiếng dưới mắt triều đình phong kiến, những tưởng viên ngục quan sẽ hùng hổ dùng trăm phương ngàn kế để hành hạ, tra tấn HC, ấy thế nhưng con người từng trải ấy chỉ xuất hiện trong đầu mình cái ý nghĩ rất thi vị, đó là xin được chữ HC, ông mơ màng ao ước cái cảnh có đôi câu đối trong nhà, điều ấy quý lắm, đẹp lắm.
PV: Với ao ước cháy bỏng ấy, viên quản ngục đã có những thái độ, hành động gì trong những ngày HC ở trong nhà giam của ông? [thảo luận 3p]
- Trước hết, đó là một tâm trạng trăn trở, băn khoăn về cái nghề mình đã chọn-canh ngục, canh giữ những kẻ tội đồ, cũng như cả những kẻ tài hoa. Một người yêu mến cái đẹp như viên quản ngục bỗng cảm thấy mình cô đơn, lạc lõng giữa chốn đề lao nhơ bẩn, vốn không phải chỗ dành cho người biết thưởng thức cái đẹp dung thân. Vẻ mặt  “bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ” như nói lên tất cả tâm trạng dằn vặt, dày vò của ông trước cái hoàn cảnh trớ trêu, thử thách tấm lòng của ông. Chính vì thế, mà tâm trạng thứ hai của viên quan coi ngục đó là sự giằng xé giữa việc đảm bảo bổn phận gác ngục và mong muốn đạt được cái sở nguyện thanh cao: xin được chữ HC. Và ông đã chọn hi sinh vì cái đẹp, dẫu ông biết làm như vậy nếu tai mắt đến quan trên, ắt hẳn cái chức của ông không còn, mà có khi lại còn bị ghép tội đồng lõa với tử tù, hình phát ắt là không nhẹ. Nhưng cái sở nguyện yêu chữ đã trở thành niềm thiết tha cả đời người. Cái đẹp đã trở nên linh thiêng trong tâm hồn viên quản ngục. Chính ở đây, vẻ đẹp của nhân vật đã thực sự tỏa sáng cùng niềm say mê cái đẹp chân chính của nghệ thuật.
b. Con người có tâm hồn “thiên lương”, biết trọng người tài
- Viên quản ngục là người biết trân trọng giá trị con người. Điều đó thể hiện rõ qua hành động "biệt đãi" của ông đối với Huấn Cao – một kẻ tử tù đại nghịch.

PV: Nhân vật quản ngục là một con người yêu cái đẹp, có cái thú vui chơi chữ thanh tao, sở nguyện cao quý. Thế nhưng con đường xin chữ của ông có dễ dàng không? Thái độ và hành động của ông như thế nào? [thảo luận 3p]
- Con đường xin chữ khó khăn trăm bề: Con đường đạt được sở nguyện của viên quản ngục xem ra không phải dễ dàng, bởi HC là một người khí khái, dễ nào vì tra tấn, nhục hình mà lại cho chữ bao giờ. Hơn nữa, đã sắp đến ngày hành hình, con người tài hoa dưới tay ông kia sắp phải từ giã cõi đời, cái sở nguyện thiết tha có khi không kịp thực hiện được. Mà xung quanh chốn lao tù, lại biết bao tai mắt kẻ khác, ngộ nhỡ có gì thì tính mạng của ông cũng khó bảo toàn.
- Cách xin chữ: viên coi ngục không dùng bạo lực mà dùng chính tấm lòng của mình để thuyết phục HC, ngay cả khi bị đuổi cũng không thay đổi tấm chân tình.
- Hành động, tư thế, thái độ trong đêm cho chữ cũng nói lên tất cả nhân cách của viên quản ngục:
+ Đó là thái độ khép nép, dáng đứng khúm núm dõi theo từng nét bút tung hoành một đời hoài bão của Huấn Cao => lại là những cử chỉ đẹp
=> Viên quản ngục lặng thầm cúi mình trước một nhân cách cao quý, trước cái đẹp đích thực của nghệ thuật.
+ Và lời nói cuối truyện, “kẻ mê muội xin bái lĩnh” => lại là câu nói cảm động nhất thiên truyện.
=> Thể hiện một thái độ dứt khoát từ bỏ sự mê muội để đến với đốn ngộ, bừng sáng.
Tiểu kết: Viên quản ngục không phải là nhân vật lí tưởng, nhưng là sáng tạo độc đáo của NT: một con người xuất thân chốn tăm tối nhưng lại có một thiên lương bừng sáng. Diễn biến nội tâm, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy đây cũng là một nhân cách đẹp, một "tấm lòng trong thiên hạ" tri âm, tri kỉ với Huấn Cao. Đó là "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".
Có thể nói, viên quản ngục là một người biết giữ "thiên lương", biết trân trọng giá trị văn hoá và tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng thật lòng cái đẹp. => QN là “đóa hoa sen thơm dịu dàng giữa bùn lầy”.
3. Nhân vật Thơ lại - kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan
- Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt:
+ Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”.
+ Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”.
+ Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”.
+ Suốt nửa tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”.
+ Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù.
+ Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài.
- Nhân vật thơ lại chỉ là một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề của thiên truyện.
4. Cảnh cho chữ - Cảnh tượng xưa nay chưa từng có
Khi quyền lực và đồng tiền, vật chất không san phẳng được khoảng cách giữa hai nhân vật HC và QN thì cái đẹp tỏ ra là một thế lực có sức kết nối mạnh mẽ, nên vực thẳm ngăn cách giữa họ bỗng dưng biến mất.
Nguyên văn cảnh cho những dòng chữ cuối cùng:  “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.
Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt.
Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.
Người tử tù ấy – ngôi sao vĩ đại sắp từ biệt vũ trụ ấy đang hoàn tác di vật cuối cùng trước khi bước vào cõi bất tử để hóa Thánh.
Việc HC cho chữ không phải là thanh toán nợ nần với QN, cũng không phải hành động của người sắp bị tử hình đem những tài sản cuối cùng cho người ở lại; cũng không phải cơ hội cuối cùng để phô diễn tài hoa, càng không phải là hành động dâng nạp vật báu cho người coi giữ mình. Đây trước hết là việc làm của một tấm lòng để đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ, là tấc lòng của người tri âm dành cho người tri kỉ. Cái tâm đang điều khiển cái tài, cái tài đang phụng sự cái tâm. Cái tài cái tâm hòa vào nhau để cùng tạo nên cái đẹp.
a. Thời gian đặc biệt:
- Đó là thơi khắc của đêm khuya, khi lính canh đã đi ngủ hết. Cái thời khắc khắc nghiệt ấy không phải là thời điểm thích hợp của thú chơi chữ, người ta phải chơi lúc mặt trời sáng tỏ minh bạch, khi hơi ấm và vẻ đẹp đang rạng ngời trên thế gian, chứ không phải trong bóng tối, giữa lúc đêm khuya mờ ám như vậy.
- Và thời gian lại càng đặc biệt hơn nữa khi đây là đêm cuối cùng của HC, cái tài hoa, khí phách của ông còn tồn tại trên đời có lẽ chỉ trong đêm nay nữa mà thôi. Lần cho chữ này là lần thứ tư, và sẽ là lần cuối cùng. Do vậy, đây là một thời điểm đặc biệt và rất có ý nghĩa.
b. Khôn gian đặc biệt:
- Điều thứ hai khiến cho cảnh cho chữ trở nên đặc biệt, đó chính là không gian mà nó diễn ra.
- Chơi chữ là thú vui tao nhã, cao quý, nó thường diễn ra trong chốn thư phòng thanh sạch.
- Vậy mà những nét chữ cuối cùng của cả đời người HC lại được viết ra trong cảnh nhơ bẩn của một phòng giam tối tăm đầy phân chuột, phân gián, chật hẹp và ẩm ướt, hoàn toàn không phải là điều kiện để ươm mầm và thưởng thức cái đẹp.Nguyễn Tuân chọn nơi đây để cho cái đẹp chào đời quả là khó tin.
c. Ánh sáng và bóng tối
- “Cảnh xưa nay chưa từng có” ấy còn có sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối - một thủ pháp quen thuộc của văn học lãng mạn trước 1945.
- Ở đây là sự đối lập giữa bóng đem bao trùm nhà giam với ngọn đuốc tẩm dầu đang ngùn ngụt cháy, soi rõ mặt người và soi sáng nét bút tung hoành của ông HC. Đó còn là thứ ánh sáng lung linh phản chiếu của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ như tâm điểm của cả bức tranh cho chữ diệu kì. Nhà giam và bóng tối, tượng trưng cho cái ác, cái xấu đang hoaành hành, đang muốn bóp chết cái đẹp của chân chính.
- Thế nhưng trong phân cảnh này, với tình yêu và niềm tin của tác giả gửi gắm vào nhân vật, dường như bóng tối đã không chiến thắng, và sẽ không thể chiến thắng những tia sáng nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, tượng trưng cho niềm tin và hi vọng của con người vào cái đẹp, cái thiên lương chân chính. Cái đẹp, cái thiện đã chiến thắng cái xấu, cái bạo tàn một cách thuyết phục.
d. Cuộc gặp gỡ đặc biệt của những con người phi thường nhưng lại phải ngụp lặn dưới đáy xã hội và sự thay bậc đổi ngôi
- Và tâm điểm của cảnh tượng xưa nay chưa từng có ấy là cuộc gặp gỡ kì lạ và đặc biệt của hai con người hoàn toàn trái ngược nhau trong tư tưởng chính trị, địa vị xã hội, nhưng lại đồng điệu trong tình yêu đối với cái đẹp chân chính.“Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…” => Cái đẹp đang được khai sinh.
+ Tư thế của người cho chữ - người tù: lại chẳng hề có một chút gì khúm núm, sợ sệt của một người sắp bị hành hình, mà chỉ thấy một phong thái ung dung, đĩnh đạc, thậm chí có phần hiên ngang khi tung hoành những nét chữ chứa đựng đầy hoài bão, đầy tinh huyết của một đời người. Nơi HC toát lên vẻ đẹp rạng ngời của người nghệ sĩ khi hoàn tất tác phẩm tâm đắc nhất cuộc đời mình. Ông bình thản tận hưởng mùi thơm của mực và giấy, ông thật sự đắm mình trong thú chơi chữ, đó thực sự là cái cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa chân chính.
+ Tư thế của người nhận chữ - ngục quan:Đối lập với tư thế của HC chính là một viên quản ngục, một thầy thư lại khúm núm sợ sệt dõi theo từng nét bút.
=> Sự thay bậc đổi ngôi: Và đến khi HC cất tiếng khuyên bảo viên quản ngục, đã có một sự đảo lộn vị thế xã hội diễn ra một cách ngoạn mục giữa người tù và viên quan coi ngục (tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan; còn ngục quan lại là người cúi lạy chịu ơn), thế nhưng sâu xa hơn, đó lại lại sự hòa hợp đến vô cùng của người sáng tạo nghệ thuật và người thưởng thức, giữa những con người biết yêu quý và trân trọng cái đẹp.Huấn Cao là sự kết hợp hoàn mĩ giữa tài và tâm. Còn nhân vật viên quản ngục là một chứng minh của nhà văn về sức mạnh cảm hóa của cái đẹp. Người sáng tạo ra cái đẹp là người tài và người biết thưởng thức cái đẹp cũng là người có thiên lương.
=> Kẻ xin chữ, người cho chữ cùng nhau phá vỡ cái nghịch lí của đời thường để tìm đến sự thuận lí mang chất văn hóa nhân bản. Lúc này, ranh giới giữa tội đồ và cai tù đã bị xóa bỏ. Chỉ còn những người bạn, những tri kỉ đang quy tụ, quây quần chung quanh cái đẹp của tình người và nghệ thuật. Cuộc cho chữ này thực chất chính là cuộc nổi loạn của cái đẹp để chứng tỏ quyền năng kì diệu của nó.
e. Di huấn của người tử tù
- Sau khi hoàn tác, trong không khí thuần khiết khi cái đẹp lên ngôi và tỏa sáng, HC để lại lời di huấn “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững”.
=> Đây là những lời di huấn thiêng liêng về nhân cách về lẽ sống, về đạo lí làm người trong cái thời vàng thau lẫn lộn.
=> Cái đẹp có thể nảy mầm từ chốn ngục tù nhưng không thể “lớn lên” ở nơi ấy. Nó cần một nơi chốn thanh tao để phát triển. Và hơn thế con người với cái sở nguyện cao quý cũng không thể sống mãi trong cảnh tăm tối ấy được.
=> Trong mội trường cái ác, cái đẹp khó có thể tồn tại vững bền. Chữ nghĩa và thiên lương không thể chung sống với lũ người quay quắt nơi chốn ngục tù đen tối. Lời nói của HC đầy ngụ ý, đầy sức gợi. Ở nơi ngục tù này có bao giờ thưởng thức được mùi mực. "thoi mực thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá". Hãy biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Vì cái gốc của chữ nghĩa chính là thiên lương đó thôi, hãy trả cái đẹp về vương quốc mà nó ngự trị.
=> Chơi chữ đâu còn là thú vui, đó là chuyện của cách sống, chuyện của truyền thống văn hóa.
=> Truyện khép lại bằng hình ảnh cuối cùng “ngục quan vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắ rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”, dù dừng lại, chia tay nhân vật, người đọc không rõ rồi viên Quản ngục ấy có thay chốn ở không, nhưng những dư vị của câu chữ và logic của câu chuyện khiến chúng ta tin cái đẹp có thể cảm hóa được con người.
Nói thêm: Có những cái cúi đầu làm cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người ta trở nên đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm con người ta bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Cái cúi đầu vái lạy của thầy quản trước HC cũng như cái cúi đầu đáng trọng của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy (Nhất sinh đê thủ bái hoa mai).
f. Ý nghĩa cảnh cho chữ:
+ Nghệ thuật đích thực nối kết tâm hồn
+ Cái đẹp không lụi tàn mà mãi mãi được lưu giữ.
+ Đây là cảnh cho chữ, cảnh chuyển giao cái đẹp của nghệ thuật, nhưng cũng là cảnh trao tặng cái đẹp của nhân cách, của phẩm chất con người (Kẻ mê muội xin bái lĩnh)
=> cái thiện, cái đẹp có thể cảm hóa con người. Cái đẹp cứu rỗi thế giới (Dotxtoiepxki)
=> Qua cảnh cho chữ  Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin vững chắc vào con người. Nhà văn khẳng định: thiên lương là bản tính tự nhiên của con người, dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn hướng tới CHÂN THIỆN MĨ. Đây chính là chiều sâu giá trị nhân văn của tác phẩm.
g. Ngôn ngữ và nghệ thuật trong cảnh cho chữ
- Cảm hứng mãnh liệt trước một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" đã khiến Nguyễn Tuân thoả sức thể hiện khả năng sử dụng vốn ngôn từ phong phú, sắc sảo của ông.
- Những lớp ngôn từ vừa trang trọng cổ kính, vừa sống động như có hồn, có nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm.
- Bút pháp dựng người, dựng cảnh của nhà văn đạt đến mức điêu luyện.
- Những nét vẽ của nhà văn trong đoạn này rất giàu sức tạo hình.
- Thủ pháp tương phản được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ hào quang bất tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao.
- Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật.
III. TỔNG KẾT: ghi nhớ SGK
Một giọng văn lạnh nhưng tình người ấm nóng, Nguyễn Tuân gửi gắm nhiều thông điệp sâu xa trong giọng văn ấy, khiến người đọc không thể hững hờ.
-          Huấn Cao con người lí tưởng, người của thần thánh thiên đình cố rũ hết bụi trần ở chốn ngục tù để hóa thánh, để nhập vào các vì sao trên không trung thăm thẳm
-          Quản ngục, người của hạ giới, gần với đời thường
___________________
ĐỀ RA: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
 Bài viết của thầy : Phan Danh Hiếu. Biên Hòa. Đồng Nai. BÀI DÀNH CHO HỌC SINH LUYỆN THI ĐẠI HỌC 
DOWNLOAD file word: http://www.ziddu.com/download/17806603/NHANVATHUANCAO.doc.html



BÀI LÀM
           Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông ĐàChữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
          Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao  Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:
Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm gươm báu
Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai)
          Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường  thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.  
          Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.
          Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
          Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta -  ngươi", miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết.  
           Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng:  “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù . Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
 Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài... thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.  Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
          Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ PHÁP. 
          Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. Ở đây  sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương  trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu  sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng  sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện... Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền) 
Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm  cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.
 Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của  Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: - Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
          Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v...) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "... văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".
__________________
Cảnh cho chữ trong tác phẩm " Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.
Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt.
Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.
Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhân định : Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc ; đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn hoá, xã hội…., năng lực quan sát lọc lõi  và trí tưởng tượng mạnh mẽ và bay bổng của tác giả Vang bóng một thời. Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tù tặng thư pháp nơi ngục thất vừa thảm đạm vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục thơ lại bỗng thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ phi thường – Xây dựng được cốt cách phi phàm, những “con người khổng lồ” nhưng có khi phải lặn ngụp “dưới đáy” xã hội, đó cũng là một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa đầy mơ ước thiết tha của Nguyễn sở dĩ gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung  phẩm tính cho nhau ấy, đều là những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân : tam vị nhân vật, nhất thế ? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương – Tam vị nhất thể sáng láng này dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến tồi tệ hiên hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái xã hội nhãn tiền ấy đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá , “Sơn Hưng Tuyên” hóa qua bối cảnh câu chuyện ông Huấn cho chữ ; đó là một xã hội “hỗn loạn xô bồ” với những thế nhân “cặn bã”, những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc : đối với kẻ sa cơ thất thế thì sẵn sàng hung hăng “phết cho mấy hèo bây giờ” – “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang được nếm trải thấm thía cái mùi vị xã hội ấy – thạm chí, một sự nghiệm sinh khá kĩ lưỡng, tất nhiên chưa đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoạn mệnh như ông Huấn, nhưng bất hạnh đến mức tù đày khổ nhục đắng cay (khoảng 1929 – 1930) thì cuang đã từng : “ những trái tim đó (của các tù nhân – V.T) thỉnh thoảng có lên tiếng nhưng một cách dữ dội và tàn ác. Những cuộc xô xát giữa tù và tù giữa bữa cơm mắm nhà nước phát, thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm cá thối trong một bầu không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). Có thể nói nguyên mẫu nhân vật Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đát Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ trăm năm trước ; nhưng nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràngcủa tác giả. Bấc đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân địa đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương : thân phận không phải là hệ quả của bản chất – tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu là ở chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân tộc trong Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây : thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho là thứ văn tự tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng), nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ cá tính và nhân cách…; do đó viết chữ Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhhiều kh trở nên một hành động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp có khi đứng riêng một mình, có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…). Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hoà đồng cùng truyền thống văn hóa phương Đông đã say mê thư pháp, và cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh sĩ Bắc Hàvề thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 – 1855) với văn chương “vô tiên Hán” và nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây dựng một nguc quan biết nung nấu sở nguyện : “Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên lương và thư pháp kiệt xuất của người tử tù : “Người tù viết xong một chữ, viên quan ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn – một con ngưòi tài hoa và am tường và đã sống chan hoà cùng  folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian : chèo, tuồng ; nghệ thuật tạo hình dân gian ; dân ca : đào nương ca, trong đó có hát ca trù…)
Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó có lớp từ cổ đã tạo hiệu quả lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể – lịch sử, rất hội hoạ điêu khắc và điện ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.
Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn Nguyễn Tuân có đầy đủ những điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ : tác giả Chữ người tử tù đã dùng từ “ngấc”, nhưng sách phụ lục văn 12 đã in sai là : “Viên quan coi ngục ngóc đầu” ; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau, và về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau : ngóc đầu là dựng thẳng dậy, gây ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu là nhấc đầu nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút snág tác văn chương ấy, một phần do thiên bẩm mà Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ, bất cứ cái gì viết ra giấy,in ra chữ, Tuân đều thận trọng, ít ra cũng là thận trọng hơn so vói những nhà văn, nhà thơ khác (…) Thực tôi chưa thấy bản thảo nào sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén xô bô, tờ to tờ nhỏ khác nhau, bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kềm kệp cẩn thận và không bao giờ quên đóng ở trên đầu một cái dấu xanh in một cánh buồm “Gió đã lên”, và thường đến cuối bài lại kí một chữ bay bướm và đóng một cái dấu son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng có nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị đó để bây giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản thảo và sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng dân tộc ; đồng thời… than ôi ! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn noi gót, hoặc cũng muốn… xin chữ ông Huấn Cao !
Không phải ngẫu nhiên, mà chính cái tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tủ tù – một trong những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
_________
___________
“Cảnh cho chữ” trong tác phẩm Chữ người tử tù.

Cảnh cho chữ được tác giả gọi là ''một cảnh tượng xưa nay chưa từng có''. Mà đúng là chưa từng có thật. Bởi vì từ trước đến giờ, việc cho chữ, vốn là 1 hình thức của nghệ thuật viết thư pháp tao nhả và có phần đài các thường chỉ diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, thế nhưng ở đây nó lại được diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám ''tường...gián''. Không chỉ thế, người cho chữ lại là 1 người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng .Và với bút pháp tương phản bậc thầy NT đã làm bật lên sự đối lập về nhiều mặt. Trong bối cảnh chật hẹp của nhà tù vẫn có bó đuốc cháy đỏ rực thể hiện chí hướng cao cả của những con người, trong cái mùi hôi của không gian lại có mùi thơm của mực, đặc biệt là sâu trong trái tim của con người tưởng như là độc ác, tàn nhẫn đó lại là ''một tấm lòng trong thiên hạ''.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng, uy nghi. Viên quản ngục và thầy thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì bỗng trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù. Điều đó cho thấy rằng: trong nhà tù tăm tối không phải những gì hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo, cái xấu đang thống trị mà chính là cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, mà chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo nên cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách.
Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Chỉ sáng mai HC sẽ bị tử hình, nhưng chắc chắn rằng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ mãi còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với viên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. ''Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ''. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo trong việc tạo dựng hình tượng nhân vât chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân góc cạnh, sáng tạo và giàu tình cảm, cảm xúc dã mang người đọc đến với một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng- một khung cảnh cổ xưa.
____________--
_______________
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù
wAy wAy đang offline 22-11-2009, 07:12

Tác giả

Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, tài tử, uyên bác, độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn đích thực thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền, với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở trường về tuỳ bút.

Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),…

Xuất xứ, chủ đề

- “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong “Vang bóng một thời”.

- Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí phách chọc trời khuấy nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp, đồng thời phải biết coi trọng thiên lương.

Phân tích

1. Truyện “Vang bóng một thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba nhân vật này.

2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ, viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.

3. Ngục quan

- Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

- Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có “biệt nhỡn” đối riêng với Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.

- Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý” rồi lui ra.

- Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan, Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch, còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ biệt nhỡn liên tài là ngục quan.

- Trong cảnh cho chữ có một hình ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ánh sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.

- Có thể, sau khi Huấn Cao bị giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, “tìm về nhà quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong kiến suy tàn, chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác phẩm.

4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.

a - Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một tên tù có tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta đồn…” - Đó là một con người không phải tầm thường!

- Ngục quan và viên thơ lại mới “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ: “Người đứng đầu…”, “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…

- Lấy xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự cuốn hút nghệ thuật kì diệu.

b - Là một nhà nho kiệt hiệt dám chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một cái “rỗ gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?

c - Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết bao giờ?”. Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lý tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính phục.

d - Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài. Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên thơ lại nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ” được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài năng và cái đẹp ở đời.

Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.

Kết luận

Đọc “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc họa tính cách nhân vật… hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.

Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” - đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong các viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!

---------- Post added at 07:10 ---------- Previous post was at 077 ----------

Phân tích để làm rõ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao

Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát vớI văn chương “vô tiền Hán”, còn nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa.
Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.
Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.
Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.
Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và “lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục !
Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:
“Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”
Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là...” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội.
“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.
Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng :
“Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.
Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.
Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.
Quay cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.
Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”.
Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.
Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

---------- Post added at 07:12 ---------- Previous post was at 07:10 ----------

Cảnh cho chữ

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.
__________________
PHân tích hình tượng HUấn Cao và viên quản ngục


Huấn Cao


Nhận định về Nguyễn Tuân, những nhà nghiên cứu văn học có uy tín đều thống nhất ở một điểm : Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, suốt đời ông tôn thờ và “đi tìm cái đẹp, cái thật” thiết tha vun đắp “thiên lương” cho mỗi “cái tôi” cá nhân – chủ thể tích cực trong sáng tạo khoa học, nghệ thuật – nảy nở và phát triển tốt đẹp. Lòng yêu nước của ông có mày sắc riêng : gắn liền với những giá trị đạo đức và văn hóa cổ truyền quý báu của dân tộc. Trên nền tảng truyền thống vững vàng và quan điểm nhân sinh,quan điểm thẩm mĩ tích cực ấy mà Nguyễn Tuân không ngừng sáng tạo. Cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ của ông là một quá trình sáng tạo liên tục. Chưa cần kể đến toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông, chỉ cần với truyện ngắn Chữ người tử tù và hình tượng nhân vật Huấn Cao cũng đủ để đưa Nguyễn Tuân thành bất tử. Trong nỗi căm ghét và bất hòa sâu sắc với xã hội thực dân đương thời, Nguyễn Tuân quay về quá khứ tìm lại ngững vẻ đẹp xưa, nay chỉ còn dư âm và “vang bóng”, đó là những thuần phong mĩ tục, thú tiêu dao, hưởng lạc tao nhã, lành mạnh, cách ứng xử đầy nghi lễ, nhịp nhành giữa người với người…Ông nhận ra rằng : trong thế giới mà chúng ta cảm giác được, không gì đẹp bằng con người. Vì vậy, trong lúc đi tìm vẻ đẹp xưa, người nghệ sĩ lãng mạn đã tìm đến và say mê, ngưỡng mộ danh sĩ Chu Thần Cao Bá Quát. Đó là một nguyên mẫu nghệ sĩ – anh hùng trong thực tế lịch sử và lung linh trong huyền thoại, cơ sở để Nguyễn Tuân sáng tạo nên hình tượng nhân vật ông Huấn Cao uy nghi, rực rỡ, chói lọi trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Cao Bá Quát (1808 – 1855) là danh sĩ – thi sĩ – anh hùng nổi tiếng nửa đầu thế kỉ XIX mà sử sách ghi chép và ngợi ca. Chí anh hùng của bậc danh sĩ thể hiện ở câu chữ thơ phú “Vòm trời xông thẳng chín tầng vẫn chửa là Cao” ; chí anh hùng lớn lao ấy được thể hiện ở hành động phất cờ khởi nghĩa chống lại triều đình bất công. Trong cuộc khởi nghĩa ấy, Cao Bá Quát ở ngôi vị Quốc sư. Trên lá cờ nghĩa nổi bật lên hai dòng chữ lớn, chắc rằng chữ nghĩa là của danh sĩ Cao Bá Quát :

Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn,
Mục Dã, minh Điều hữu Võ Thang.

(Ở Bình Dương, Bồ Bản không có ông vua tốt như Nghiêu, Thuấn, thì ở Mục Dã, Minh Điều phải có những người chống lại như Võ Thang).

Cuộc khởi nghĩa bùng nổ năm 1854, một năm sau (1855) Cao Bá Quát hi sinh trên chiến trường với tư cách một anh hùng đấu tranh cho tự do và công lí. Trước khi khởi nghĩa, trong cuộc đời làm quan, với nhân cách cứng cỏi của kẻ sĩ chân chính, Chu Thần đã không tiếc lời châm biếm, đã kích thói xấu của bọn vua quan ở chốn cung đình, có lần ông đã bị hạ ngục, kết tội xử “giảo giam hậu” (chém nhưng giam lại xét sau), sau được xét lại, chỉ bị cách chức, rồi phải đi phục dịch trong “hải trình hiệu lực” đưa Đào Trí Phú sang công cán ở Batavia (Inđônêxia). Sau khi Cao Bá Quát hi sinh, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, triều đình nhà Nguyễn hèn hạ và tàn bạo thực hiện lệnh tru di tam tộc đối với dòng họ Cao, nhưng “văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán” thì vẫn muôn đời bất hủ, khí phách anh hùng của Chu Thần trường tồn. Ông Huấn đạo Cao Bá Quát đã đầu thai vào thế kỉ của văn chương hiện đại để thực hiện một sứ mệnh nghệ thuật mới với cái tên khai sinh : Huấn Cao. Đó là nguồn cảm hứng để Nguyễn Tuân thể hiện tư tưởng nghệ thuật lớn của mình : cái đẹp bất diệt.
Tìm được một nguyên mẫu xứng tầm, ngòi bút lãng mạn của Nguyễn Tuân mặc sức tung hoàng. Nhân vật Huấn Cao kết tinh tài hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân, là nhân vật đẹp nhất trong thế giới nhân vật mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra. Nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao đã quá đẹp, nhân vật ấy lại được xây dựng theo lối lí tưởng hóa của bút pháp lãng mạn càng trở nên lộng lẫy, uy nghi hơn.
Hình tượng ông Huấn Cao hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm. Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực và cảm hứng để khắc họa chân dung Huấn Cao, thể hiện sức mạnh của cái Chân – Thiện – Mĩ, biến nhân vật Huấn Cao thành một nhân vật lí tưởng. Ôn là hiện thân của tài đức và nhân cách cao cả, là kết tinh nhiều giá trị và phẩm chất cao quý của con người. Kể về “tài” thì ông Huấn Cao là người văn võ song toàn, có vẻ đẹp uy nghi của bậc hào kiệt dám dựng cờ khởi nghĩa. Ông lại có vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa, có tài thư pháp, viết chữ đẹp. Nói về “đức”, về “nhân cách” thì ông Huấn Cao ngạo nghễ trước cường quyền, bạo lực, khinh thường tiền bạc, nhưng lại là người độ lượng bao dung, tha thiết với cái thiện của con người. Huấn Cao là một nhân cách toàn vẹn.
Trong cái tài văn của Huấn Cao, tác giả tô đậm cái tài viết chữ đẹp : “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (…).Có được chứ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Chữ ông Huấn Cao quý giá vì nó rất đẹp, nhưng quý hơn cả vì nó kết tụ tinh hoa và tâm huyết của người cầm bút, thể hiện nhân cách cao khiết và “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Vì thế, “có được chữ ông Huấn mà treo” trở thành nỗi khát khao cháy bỏng trong tâm khảm của quản ngục từ cái thuở “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Vừa sử dụng lời ngợi ca trực tiếp, Nguyễn Tuân rất tinh tế, khéo léo sử dụng các thủ pháp nghệ thuật khác để gián tiếp ca ngợi cái tài vừa hiếm vừa quý ấy của Huấn Cao. Đó là những băn khoăn, những tính toán của viên quản ngục ; những biệt đãi, nhẫn nhục, những đau khổ, nỗi hốt hoảng, hi vọng và tuyệt vọng, hồi hộp thành kính của y : “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chứ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chứ, thì ân hận suốt đời mất” ; vì thế, “quản ngục tái nhợt người đi” như mất hồn khi tiếp nhận công văn của “quan Hình bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí vào Kinh” chịu hành hình.
Hết mực ca ngợi cái “tài” của ông Huấn, nhà văn chủ yếu và đồng thời ca ngợi cái “tâm” của ông. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Nguyễn Du). Không có cái “tâm” đẹp đẽ của ông Huấn Cao thì cũng không có vẻ đẹp của chữ ông Huấn Cao. Ông Huấn có nét chữ đầy sức chinh phục hồn người, rắn rỏi, cao khiết, vuông vắn, vì cái “tâm” của ông Huấn rực rỡ, chiếu sáng lên toàn bộ cuộc đời ông, chi phối các hành động lớn nhỏ của ông. Không chịu quỵ lụy, vào luồn ra cúi, không chịu nổi cảnh “cá chậu chim lồng”, với chí khí anh hùng cao cả, ông nổi dậy chống lại triều đình bất công. Sự nghiệp anh hùng không thành, ông bị bắt, bị khép vào tội “đại nghịch” và phải lãnh án chém, ông Huấn vẫn không mảy may sợ hãi hay hối tiếc. Cổ mang gông, chân vướng xiềng, ông bước vào ngục tử tù chờ chết mà vẫn hiên ngang, đàng hoàng. Ở đời thường, trừ chỗ tri kỉ, ít khi ông cho chữ : “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Khi sa vào chốn giam cầm, ông chẳng vì được biệt đãi mà bị lung lạc hay vì quyền uy mà run sợ. Đúng là một nhân cách lí tưởng mà người đời hàng ngàn năm vẫn ca ngợi : “Giàu sang không thể quyến rũ – Nghèo khó chẳng thể chuyển lay – Uy vũ không thể khuất phục”.
Nhưng con người tưởng như được tạo bằng đá tảng, được đúc bằng thép ấy lại rất tinh tế trong đói xử với con người. Ông cho chữ viên quản ngục không phải để trả ơn người đã biệt đãi mình, đã dâng rượu thịt cho mình trong những ngày ảm đạm cuối cùng. Ông cho chữ viên quản ngục vì cảm động và trân trọng một nhân cách cao quý. “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Cho chữ, ông đã liệt quản ngục vào hàng tri kỉ của mình, bởi vì ông đã nhận ra viên quản ngục như một đóa sen trong bùn, ông nói thành thật : “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ông đã đem một tấm lòng tri âm để đáp lại một bậc tri kỉ. Phát hiện thấy một nhân cách cao quý giữa chốn tối tăm, ông không nỡ để cho nhân cách áy hoen ố đi, ông chân thành, ân cần dặn dò quản ngục những lời tâm huyết : “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi (…). Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.
Đoạn văn tả cảnh ông Huấn cho chữ ở cuối truyện là một đoạn tuyệt bút và cũng là đoạn văn bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp nhân cách của ông Huấn Cao. Không còn là ông Huấn tử tù, chỉ có ông Huấn nghệ sĩ tài hoa đang ung dung sáng tạo cái đẹp. Người nghệ sĩ ấy đang tự do nhất trên đời. Không có cái chết kề bên, ông Huấn đang đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Không còn bóng tối, sự chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu của buồng giam nữa, chỉ có ánh sáng rừng rực của bó đuốc, hương thơm ở chậu mực bốc lên, hương thơm của phẩm giá và tình người.
Những người như quản ngục và thầy thơ lại đón nhận những lời dạy bảo của người tù dưới quyền mình một cách khúm núm, e sợ, thành kính như những tín đồ ngoan đạo nghe theo vị giáo chủ của mình, như những bề tôi thấp hèn phụng mệnh đấng minh quân quyền thế.
Hình tượng Huấn Cao là một hình tượng đậm chất lãng mạn, có vẻ đẹp lí tưởng, rực rỡ, uy nghi, lẫm liệt. Nhân vật càng hấp dẫn khi người đọc liên hệ với nguyên mẫu Chu Thần Cao Bá Quát – một danh sĩ, một nhân vật lịch sử với những huyền thoại lung linh.


Viên quản ngục


Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp với sức mạnh hướng thiện của nó, thì nhân vật viên quản ngục được sáng tạo ra là để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Có viên quản ngục thì ý đồ nghệ thuật của nhà văn mới thực hiện được. Nhưng vai trò cực kì quan trọng ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi vì nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân “giấu” đi, ẩn xuống hàng thứ hai đằng sau nhân vật Huấn Cao. Cảm giác ban đầu khi đọc Chữ người tử tù, người đọc choáng ván, ngập trong ánh sáng tỏa ra từ hình tượng Huấn Cao uy nghi, rực rỡ. Từng dòng chữ, từng trang sách cứ lấp lánh Huấn Cao. Người đọc chẳng thiết nghĩ điều gì khác ngoài nghĩ về Huấn Cao. Nhưng đọc thêm một vài lần nữa, gấp trang sách lại, ngẫm nghĩ kĩ, thấy nhân vật quản ngục từ từ hiện lên, ngày một rõ nét và cuốn hút ta bằng một sức mạnh kì lạ. Ta càng thấm thía, cảm phục ngòi bút tài hoa, thâm thúy của Nguyễn Tuân. Khi được khám phá, phát hiện, nhân vật quản ngục sẽ đem lại cho ta nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới mẻ, thú vị. Tính cách của nhân vật Huấn Cao có phần một chiều, bất biến và đơn giản, ít những bất ngờ. Trái lại, nhân vật viên quản ngục có sự vận động về tính cách. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện, tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta yêu đến say mê cái đẹp, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”.
Nhưng sự đời run rủi, và “ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”, quản ngục sa vào chỗ tối tăm, phẩm chất từ đó đã hoen ố đi ít nhiều. Giữa chốn tù ngục hầu như chỉ tồn tại hai thứ : cái ác, cái xấu, tàn nhẫn, lừa lọc và những nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Tình cờ, viên quản ngục gặp được ông huấn Cao, gặp thần tượng của mình, gặp trong hoàn cảnh cực kì éo le : giữa chốn ngục thất, thần tượng của ông giờ đây lại là một tử tù, còn ông là cai ngục. Một tình huống đầy kịch tính được mở ra : ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”’ ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được mấy chữ của ông Huấn.
Người đọc hồi hộp theo dõi từ đầu chí cuối tác phẩm, không biết quản ngục có xinh nổi chữ của ông Huấn hay không ? Nhân vật quản ngục bị đặt vào một thử thách khá gay go quyết liệt. Mấy ngày ngắn ngủi ông Huấn Cao tạm bị giam trong ngục tử tù của y, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căn thẳng, hồi hộp. Y thừa biết tính ông Huấn “vốn khoảng, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Làm sao đây, chỉ trong ít ngày để có thể lấp đầy khoảng cách giữa “cai ngục” và “tử tù”, để thành “tri kỉ” của ông Huấn ? “Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Mặt khác, viên quản ngục luôn luôn phải dò xét, đề phòng cả bọn thuộc hạ, ông sợ “tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì khó mà ở yên”, ông phải “dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc. Tiếp được công văn để lĩnh nhận sáu tên tù án chém, ông ta đọc tên từng người và dừng lại ở cái tên Huấn Cao, rồi hỏi viên thơ lại để xác minh cho rõ. Nhân vật viên quản ngục không chỉ là kẻ biết thi hành phận sự, cần mẫn, tận tụy, mà còn là nhân vật có đời sống nội tâm sâu sắc. Có lúc khuôn mặt tỏ rõ sự nghĩ ngợi đăm chiêu, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
Trong nhận xét rất tinh tế của người dẫn truyện thì viên quản ngục có “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người”. Ông được coi “là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái thuần khiết” bị đày ải “vào giữa một đống cặn bã”, là “người thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”. Là quản ngục, nhưng ông ta cũng chính là tù nhân chung thân của cái nhà tù do ông cai quản. Cái danh, cái lợi, trách nhiệm, bổn phận của một ngục quan là những thứ gông cùm, xiềng xích vô hình xiết chặt tâm hồn quản ngục suốt đời. “Lũ người quay quắt”, cái “đống cặn bã” bao quanh ông chẳng khác gì nơi buồng tối giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đã có lúc, ngục quan thấm thía thân phận lạc loài, cô đơn giữa chốn tù ngục của chính mình, y than thở một mình : “Có lẽ lão bá này, cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”. Nếu như bi kịch của ông Huấn là bi kịch của người anh hùng thất thế, thất thế nhưng vẫn kiêu hùng, lẫm liệt ; thì bi kịch của ngục quan là bi kịch lầm đường. kẻ lầm đường lạc lối, may thay, vẫn còn có lương tri, lương năng, còn có “lòng biệt nhỡn liên tài”, còn có khát vọng giải thoát. Y tôn thờ cái đẹp, say mê cái đẹp để hi vọng tự giải thoát. Lúc ngục quan gặp huấn Cao thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”, “bộ mặt tư lự” đã hằn nhiều nếp nhăn của cuộc đời “tù nhân” nhọc nhằn, nhưng khát vọng giải thoát biểu hiện ở khát vọng hướng tới cái đẹp vẫn mãnh liệt vô cùng. Âm ỉ bấy lâu, nay nó bùng cháy lên thành lửa ngọn. Ngục quan tự hạ mình xuống trước tử tù, nhẫn nhục chấp nhận sự “khinh bạc đến điều” của ông Huấn. Y không oán thù, y biết người ta, “y cũng thừa hiểu những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác phẩm thì không chỉ còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng, tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở thích cao quý” và “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của ngục quan. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị trí xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng dòng lệ và tiếng nói nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái.
Vận mệnh nghệ thuật của tính cách ông Huấn Cao đã kết thúc cùng với sự kết thúc của thiên truyện ; trong khi đó, vận mệnh vẫn còn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục : người đọc có thể tin rằng sau những lời khuyên bảo ân cần của ông Huấn, viên quản ngục đã luống tuổi ấy sẽ từ bỏ nghề bất nhân về quê ở để giữ thiên lương cho trong sạch, lành vững.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.

Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao với viên quản ngục trong tác phẩm "Chữ người tử tù"


Sống giữa buổi giao thời của hai thời đại , con người ta như có một sự chuyển biến thật khác lạ . Con người bị giằng xé bở hai xã hội Tây – Tàu lẫn lộn nhố nhăng , họ cảm thấy phẫn uất với xã hội đương thời . Là một con người khác với mọi người , Nguyễn Tuân đam mê chủ nghĩa xê dịch , ông thích đi khắp nơi và tìm cảm hứng mới cho nghiệp văn chương của mình.Và Nguyễn Tuân , với ngòi bút sắc sảo của một nhà văn , đã thể hiện thật sâu sắc những điều ông muốn bày tỏ với xã hội đương thời thông qua tác phẩm “ Chữ người tử tù “ . Thông qua hai hình tượng , viên quản ngục và người nghệ sĩ tài hoa Huấn Cao , nhà văn đã phác hoạ lên ở “ Chữ người tử tù “ về chân dung của những con người lương thiện bị chà đạp trong cuộc sống hiện tại, về vẻ đẹp của một trang anh hùng nghĩa sĩ tài hoa nghệ sĩ .

Nguyễn Tuân đã rất thành công khi miêu tả nhân vật quản ngục , một con người dù sống trong lòng quân địch , ngày ngày tiếp mặt với chúng nhưng vẫn giữ trong tâm hồn , trong lòng mình tính lương thiện và yêu thương con người .Cũng như bao con người khác , viên quản ngục cũng có những ước mơ riêng cho bản thân mình , cũng thần tượng một người như ai . Đó là “ Huấn Cao ? Hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh , rất đẹp “ . Ông vẫn thầm ngưỡng mộ con người này bởi tài năng thiên bẩm ấy của một con người . Ông hâm mộ Huấn Cao và chỉ mình Huấn Cao mà thôi . Đối với riêng Huấn Cao thì quản ngục tỏ lòng thành kính sâu sắc , bở vì theo ông , Huấn Cao là một hiện tượng có tính chất siêu phàm mà ông chỉ được quyền hâm mộ từ phía xa mà thôi . Ông thấy người ta nói với nhau rằng “ Mọi người nhắc nhỏm đến cái danh đó luôn “ . Trong lòng viên quản ngục , Huấn Cao ở một vị trí vô cùng trang trọng , vị trí cao quý nhất trong suốt cuộc đời ông . Ông tôn kính Huấn Cao , gọi Huấn Cao nhưng không dùng tên mà dùng “ danh ” . để tỏ lòng rõ sự tôn trọng của mình đối với người nghệ sĩ tài hoa ấy . Quản ngục hâm mộ một con người , dám chống lại triều đình . Những hành động “ bẻ khoá “ , “ vượt ngục “đều góp phần tô điểm thêm vào bức chân dung ngoạ hình Huấn Cao , một con người khao khát tự do , không chịu rành buộc bởi bất cứ sự khuôn phép nào cả . Điều đó càng khiến cho quản ngục thêm trân trọng Huấn Cao . Nguyễn Tuân , dùng những thủ pháp chọn lọc từ ngữ điêu luyện , lựa ra những từ ngữ mang tính tượng hình tượng trưng để làm nổi bật len tính cách và tâm trạng viên quản ngục . Những hình ảnh đó biến đổi liên tục không ngừng nghỉ , cũng như sự lo lắng , buồn vui của viên quản ngục khi nghĩ về Huấn Cao . Ngục quan là một chức vị tuy không to nhưng cũng thuộc vào hành quan ., một quan chức trong cái buổi giao thời . Sự chuyển giao từ một xã hội phong kiến lụi tàn “ như một cái đèn dễ leo lét “ sang một xã hội khác , không chắc đã tốt đẹp hơn hiện giờ . Viên quản ngục với “ khuôn mặt nghĩ ngợi “ và “ băn khoăn ngồi bóp thái dương ‘ , trầm tư suy nghĩ . Vì thế , chắc hẳn rằng , ông đã phải suy tính nhiều lắm . Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh “ khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú “ thật tinh tế , khéo léo . Uyển chuyển trong lời nói cũng là một nét nghệ thuật độc đáo mà ta cũng thường thấy ở Nguyễn Tuân . Chỉ bằng hình ảnh con song , nhà văn đã thể hiện sự cô đơn , tù túng như bị giam cầm trong cõi lòng viên quản ngục . Cái nhà tù đó , trói chặt những ước mơ , những hoài bão một thời của ông . Ông buồn lắm , ông cảm thấy mệt mỏi , tâm trạng chán nản , muốn trút bỏ mọi gánh nặng công việc đang đè trên đôi vai mình . Khung cảnh tối , cùng tâm trạng sầu thảm , như đã hình thành nên trong tác phẩm một khối đen , thật tối , mang chút hỗn mang và lẫn lộn . Nó khiến cho người đọc như lạc vào một thế giới quan mang nhiều gam tối , khó nhìn rõ , huyền ảo . Tâm trạng của viên quản ngục cứ thay đổi theo thời gian. Đến khi ông mường tưởng ra cảnh Huấn Cao bị hành hình như “ một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ “thì ông cảm thấy lo lắng . Cái tâm trạng sầu não khi nào giờ đây đã không còn nữa , thế vào đó là một sự lo lắng đến tột cùng . Lúc này , “ viên quản ngục ngắn đầu , lấy que hương khêu thêm một con bấc . Ba cái tim bấc được chụm lại , cháy bùng to lên “ . Ba cái tim bấc tượng trưng cho nhiều điều . Nó tuợng trưng cho sự chán chuờng xen lẫn mệt mỏi cùng với chức vụ quản ngục . Hay phải chăng hình ảnh ba cái tim còn đại diện cho những con người , những nỗi thống khổ và những sự cả nghĩ cho một tương lai mịt mờ , u ám của xã hội nửa Tây , nửa Tàu . Hoặc rằng ba trái tim đó là trái tim của “ viên quản ngục “ , trái tim Huấn Cao , và trái tim của thầy thơ lại , những trái tim tìm thấy ở nhau một điểm chung nào đó mà chỉ có họ mới biết , mới nhận ra . Giờ đây lại ngắc đầu lên , viên quản ngục thấy lóe lên một tia hy vọng khi Huấn Cao chuẩn bị vào tù , và như thế , ông đã có thêm một người bạn . Có lẽ nhiều người sẽ cho rằng viên quản ngục là kẻ gàn dở hay bất lương , vì nếu đã coi Huấn Cao như thần tượng hay gần gũi như một người bạn thì phải muốn tốt cho bạn , chứ chẳng ai muốn bạn vào tù cả . Nhưng , mỗi thời đại mỗi khác , cuộc sống không tìm ra đường thoát chỉ biết quẩn quanh với những gì đơn giản và tẻ nhạt , viên quản ngục thực sự muốn tìm một người ban tâm giao thật sự . Vì vậy , Huấn Cao là người thích hợp nhất . Bởi vì “ khi nghĩ đến Huấn Cao , ông thấy lòng mình như dịu lại “ , thư thái hơn , thanh thản hơn , như lúc ban đầu . Ông hy vọng một điều gì đó rất cao cả , đó là việc được Huấn Cao cho chữ . Trong không gian tối tăm của viên quản ngục , Nguyễn Tuân đã bất ngờ thắp sáng lên ngọn lửa của niềm khát khao cháy bỏng của một con người bấy lâu nay bị vùi lấp dưới những điều xấu xa của xã hội . Một ánh sáng , một ngọn lửa phát ra từ chính viên quản ngục . Đó chính là tâm lòng thiện lương , nghĩ về cái tốt . Cành ở trong bóng tối thì ngọn sáng phát ra từ viên quản ngục càng rực rỡ hơn , ngọn sáng của tấm lòng lương thiện ,yêu quý cái đẹp và biết trân trọng những giá trị cao đẹp của cuộc sống . Hơn thế nữa , Nguyễn Tuân còn xây dựng nhân vật thầy thơ lại , “ một kẻ kính mến khí phách “ , một kẻ biết tiếc , biết trọng người tài bên viên quản ngục , càng làm tô đậm , rõ nét hơn những gì trong sáng , tốt đẹp nhất trong con người quản ngục . . Hay như lời của Nguyễn Tuân “ Trong hoàn cảnh đề lao , người ta sống bằng sự tàn nhẫn , bằng lừa lọc , tính cách dịu dàng à lòng biết giá người , biết trong người ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ “
__________________
Phân tích tác phẩm Chữ người tử tù


Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một truyện ngắn xuất sắc trong tập truyện Vang bóng một thời, được chọn đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp 11- PTTH (SGK Văn học 11 – NXBGD, 2000). Đây là một tác phẩm có giá trị đặc sắc cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, vì vậy cách tiếp cận tác phẩm nhằm khám phá các tầng nghĩa của tác phẩm là một hướng khảo sát cần xem xét.

Lâu nay ở nhà trường PTTH trong cách tiếp cận truyền thống theo định hướng của sách giáo viên – vốn được xem là hệ giá trị chuẩn – một số giáo viên khi giảng tác phẩm này thường chỉ tập trung vào nhân vật Huấn Cao như hình tượng trung tâm mà quên mất nhân vật viên quản ngục cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong chuyển tải thông điệp thẩm mỹ của tác phẩm. Đây là nhân vật sóng đôi cùng Huấn Cao- người tạo ra cái đẹp, người trân trọng và tôn vinh cái đẹp, một hiện tượng văn hóa nhân cách. Vì vậy nếu chỉ ca ngợi cái đẹp tài hoa tài tử trong nhân cách, khí tiết nhân vật Huấn Cao mà xem nhẹ vai trò của nhân vật quản ngục thì giá trị của tác phẩm sẽ không khai thác hết, nguyên tắc mỹ học của tác phẩm sẽ bị phá bỏ. Hai con người này tồn tại trong tác phẩm như một cặp song trùng – một “sự thể hiện sự vật theo nguyên lý cặp đôi, thể hiện tính lưỡng diện, sự tồn tại không thể thiếu nhau của các đối cực” (1). Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục xuất hiện như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Điều đó làm nảy sinh một sự liên tưởng đặc biệt, vượt ra ngoài mọi quy luật thông thường. Bản thân sự tồn tại của viên quản ngục, đời sống tâm hồn, nhân cách… được phát hiện, chiêu tuyết và chớp nhoáng nhờ sự xuất hiện của Huấn Cao. Đồng thời tài năng cùng sức cuốn hút mãnh liệt về khí tiết, nhân cách của Huấn Cao cũng được soi rọi, nâng lên, nhấn mạnh hơn từ cách ứng xử “biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục. Có thể nói hai nhân vật này khi được lồng vào cảm hứng ngợi ca cái đẹp đều mang trọng trách chuyên chở thông điệp thẩm mỹ và chiều sâu nhân bản của tác phẩm – điều mà Nguyễn Tuân luôn trăn trở và đặt lên hàng đầu trong các sáng tác của mình.

Chữ người tử tù viết về một thời đã qua. Đấy là thời phong trào Cần Vương đã tắt, thực dân Pháp đã đặt xong nền đô hộ. Tầng lớp nho sĩ khí phách tài hoa nhưng bất lực trước thời cuộc đành gắng gỏi giữ gìn lấy cái thiên lương, giữ gìn cách sống, cách nghĩ, cách làm kể cả cách tiêu khiển mang chất văn hóa và đậm sắc màu dân tộc, xem đó như một thái độ quay lưng, khước từ và chối bỏ chế độ thực dân cùng với lối sống thô lậu, xu thời. Nằm trong mạch ca ngợi một nét đẹp của văn hóa dân tộc, Chữ người tử tù thể hiện một thú tiêu khiển độc đáo – việc xin chữ cho chữ cũng như thú chơi chữ của người xưa đã khơi dậy trong thẳm sâu tâm linh người đọc vấn đề về con người, về bản chất và thân phận con người trong xã hội…

Nhân vật viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân vốn làm cái nghề như Huấn Cao nói “khó giữ vững được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”(2) lại là người yêu cái đẹp, biết quý trọng người ngay. Dù chưa được gặp Huấn Cao, quản ngục đã không dấu nổi vẻ khâm phục đối với con người tài hoa có nhân cách đáng trọng đó “Huấn Cao? hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?”(3) Ngay trong cách dò la ý tứ viên thơ lại thái độ của quản ngục cũng thể hiện một niềm ngưỡng mộ Huấn Cao rõ rệt: “Thầy liệu cái buồng giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ tốt còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?”. Vì khâm phục một nhân cách đẹp, một tài năng song toàn đi kèm với nỗi xót xa trước hiện thực cái đẹp bị vùi dập nên ông đã tìm cách hóa giải phần nào niềm đau đớn đó. Đọc kỹ đoạn văn miêu tả khung cảnh nhà ngục thảm đạm, âm u, ta thấy tác giả như xót thương cho một số phận, một tài năng bị đọa đày, đồng thời cảm thông với một số phận khác tuy tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về nhân cách. Cảnh nhà ngục âm thầm, u ám cùng mẩu đối thoại ngắn giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, trong đó cả hai đều e dè gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau đã khẳng định điều đó. Không gian nghệ thuật của tác phẩm giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một “cõi nhân sinh” bóng tối nhiều hơn ánh sáng, là một bước chuẩn bị tâm lí cho độc giả để dõi theo những hành động tâm lí, số phận của hai nhân vật. Đó là một nơi mà “những vẻ đẹp và những điều xấu xa kế cận nhau một cách bất thường và khó hiểu”(4). Trong thế giới riêng tối tăm của nhà tù, quản ngục như lạc lõng, cô độc trong thế giới riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù, quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kẻng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí mà cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút… Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là: “đang băn khoăn ngồi bóp thái dương”. Với ngoại hình “tóc hoa râm, râu đã ngả màu, bộ mặt tư lự” (5), quản ngục dường như đang trải qua một cuộc đời mòn mỏi cô đơn, dáng vẻ trầm tư kia cho thấy ông đang phải trăn trở trước một việc khó xử. Nhưng rồi cách chuyển giọng văn của tác giả “những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đây, giờ chỉ còn mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo, êm nhẹ” (6), như một nhịp chuyển trong diễn biến tâm lí của nhân vật. Quyết định biệt đãi Huấn Cao đã làm tươi sáng diện mạo viên quản ngục. Đó còn là nỗi vui mừng kín đáo được tiếp nhận một con người tài hoa như Huấn Cao. Vẻ đẹp trong tâm hồn quản ngục được Nguyễn Tuân đánh giá là “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ”(7), là cái thuần khiết giữa lũ người cặn bã, quay quắt. Đoạn độc thoại nội tâm, những băn khoăn về thầy thơ lại của quản ngục soi sáng lòng nhân ái, tấm lòng quý trọng biết đánh giá con người của nhân vật này. Điều này dường như trái với quy luật về sự ảnh hưởng của môi trường sống đến tính cách của con người “ở bầu thì tròn ở ống thì dài”.

Đã là tử tù và quản ngục tất có sự đối lập gay gắt. Nhưng Nguyễn Tuân từ sự đối lập như một định kiến của xã hội đó lại muốn xây dựng hai nhân vật này như một cặp song trùng trong sự tương liên đặc biệt nơi sâu thẳm tâm hồn con người. Đó là sự gặp gỡ, là tiếng nói tri kỷ rất nhân bản giữa Huấn Cao và viên quản ngục trước cái đẹp. Ý đồ nghệ thuật ấy buộc thiên truyện tập trung vào một tình huống độc đáo đến bất ngờ: Cuộc gặp gỡ giữa người viết chữ đẹp với người yêu chữ đẹp.

Cuộc gặp gỡ giữa hai con người này diễn ra trong một hoàn cảnh đặc biệt: quản tù tiếp nhận tù nhân. Với bút pháp miêu tả mang phong cách tùy bút, cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc, tác giả để sáu phạm nhân xuất hiện với chiếc gông nặng đến bảy, tám tạ đè trên sáu đôi vai gầy. Hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ bởi vẻ đẹp kiêu hùng của những con người coi thường gian truân khổ ải, tuy vất vả nhưng không hề bi lụy. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, coi khinh quyền lực bao nhiêu trong hành động “rỗ gông” thì quản ngục càng nhẫn nhịn, kiêng nể, kính phục bấy nhiêu trong thái độ hiền lành, lời nói ung dung khi mắng bọn lính canh tù. Huấn Cao nhận sự chăm sóc của quản ngục một cách thản nhiên, coi đó là việc làm tự nhiên trong “cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Lời miệt thị quản ngục của Huấn Cao chỉ nhấn mạnh thêm khí phách hiên ngang, bất khuất trong chờ chết vẫn ung dung thanh sạch của ông. Trước sự coi khinh của Huấn Cao, quản ngục chỉ lễ phép lui ra mà không một lời trách cứ, thái độ đó gây cho Huấn Cao ít nhiều băn khoăn. Huấn Cao càng tuyệt vời trong vẻ khí khái, khinh thế ngạo vật bằng lời nói khoảnh: “Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”, quản ngục càng cam chịu, khép nép, nhún nhường “xin lĩnh ý”, chỉ vì một sở nguyện “được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”(8), chỉ vì xót xa một tài năng bị vùi dập, bị mất đi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng dần từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ ứng xử… trong hoàn cảnh gặp gỡ dè dặt, dò hỏi tưởng chừng như đối địch quyết liệt đó. Đoạn độc thoại nội tâm mang phong cách tùy bút vừa ngợi ca Huấn Cao, vừa xót thương quản ngục – một người biết tôn trọng cái tài cái đẹp tuy có “Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình nhưng lại cách xa nhiều quá”. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã. Con người này hàng ngày là công cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chứa chất một nỗi cô đơn không kẻ tỏ bày, không người tri âm, tri kỷ, để mỗi khi đêm về giật mình mình lại thương mình xót xa (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Nhờ sự xuất hiện của Huấn Cao mà hai cái tâm “kể rõ tâm sự mình” “cảm động nghe”, xích lại gần nhau, tìm thấy nhau, đó chính là nhờ uy quyền của cái đẹp tỏa ra từ Huấn Cao. Khi nghe tỏ rõ nỗi lòng của quản ngục, Huấn Cao “lặng nghĩ”, rồi đồng ý cho chữ. Lời đồng ý xen lẫn một chút tự hào về bản thân, đồng thời hàm ý tạ lỗi khéo léo, tế nhị “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ… Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”(9). Huấn Cao vốn là nguyên mẫu của Cao Bá Quát, một người mà văn chương thì “vô tiền Hán” nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa). Một nhân cách quý giá kiêu hùng như thế nhưng khi chạm phải “khối tình lớn” quản ngục đã bị lay chuyển để rồi hạ bút cho chữ trong một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đọc Chữ người tử tù trong tương quan với cảm hứng chủ đạo để thấy ý nghĩa giá trị của cặp nhân vật song trùng Huấn Cao – viên quản ngục cũng là một cách tiếp cận có cơ sở để khai thác các tầng nghĩa ẩn sâu bên trong tác phẩm. Từ đó có thể tránh được sự máy móc một chiều chỉ đánh giá cao người tử tù mà bỏ qua người quản ngục, như vậy cấu trúc thẩm mỹ của tác phẩm sẽ không còn chặt chẽ, ý đồ nghệ thuật của tác giả phần nào không được khai thác hết.
__________________